Thursday, July 23, 2020

CÁC LÝ THUYẾT VỀ HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI

1. SONG ĐỀ XÃ HỘI HỌC 

Có một thực tế trong lịch sử xã hội học là các nhà nghiên cứu của bộ môn này bị mắc vào một số song đề (dilemma), những song đề đôi khi trùng lặp nhau đôi khi tách rời nhau; chúng tạo cảm hứng cho những khổ công tìm tòi và cũng gây nên những tranh luận lớn. Một trong những song đề ấy là sự đối lập giữa việc nhấn mạnh vào cấu trúc xã hội hay nhấn mạnh vào hành động xã hội. Thậm chí người ta còn nói rằng có hai xã hội học: một ưu tiên đặt cấu trúc xã hội lên trên (cấu trúc luận), một xem các hệ thống xã hội là sự sáng tạo của con người (các lý thuyết hành động hoặc tương tác). 

Những quan điểm như thế quyết định đến việc hiểu đối tượng của bộ môn. Theo Marshall (1998), có ba quan niệm về đối tượng của xã hội học. Quan niệm thứ nhất, đối tượng của xã hội học là cấu trúc xã hội, tức là những khuôn mẫu của quan hệ xã hội tồn tại độc lập, trong đó các cá nhân và nhóm chiếm giữ những vị trí trong những cấu trúc ấy. Quan niệm thứ hai, đối tượng của xã hội học là những ý niệm tập thể (từ dùng của Emile Durkheim), đó là những ý nghĩa và cách thức của việc tổ chức thế giới, thế giới ấy tồn tại bên ngoài và bên trên cá nhân, cá nhân được xã hội hóa vào trong thế giới đó. Quan điểm thứ ba, đối tượng của xã hội học là hành động xã hội có ý nghĩa (theo nghĩa Max Weber sử dụng). Trong hình thái cực đoan của quan niệm thứ ba thì không có gì gọi là xã hội cả: chỉ có những cá nhân tham gia vào các mối quan hệ với nhau. Quan điểm thứ ba có vẻ rất phù hợp với kinh nghiệm và tri thức đời thường (common sense). Cái đập vào mắt quan sát là "hoạt động của con người". Người ta không "nhìn thấy" cái "xã hội” đâu cả, chỉ thấy những con người đang hành động. Nhưng "đó" chính là xã hội. Vì vậy, ngay từ đầu xã hội học mắc vào một cặp bài trùng, một thế lưỡng nan: nó luôn thấy xã hội khác con người, đồng thời nó luôn không thể tách rời xã hội và con người. 

2. ĐỊNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM
2.1. Đối tượng của xã hội học là hành động xã hội 

Hiện thực xã hội là khách thể chung của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Để tự xác định bản sắc của mình, mỗi ngành phải tìm thấy lát cắt đối tượng nghiên cứu của bản thân từ cái khách thể chung đó. Một trong những cách thức xác định lát cắt tiếp cận xã hội học là xem đối tượng nghiên cứu cơ bản của nó là hành động xã hội. 


Hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân cũng như các khuôn mẫu quan hệ được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra theo những quy tắc nhất định và trong những hình thái nhất định, những quy tắc và hình thái này có một sự bất biến tương đối. Đối với các cá nhân, những điều trên là rõ ràng và hiển nhiên, dựa trên nhận thức và kinh nghiệm thực tiễn. Nhưng xã hội học vượt qua nhận thức hàng ngày đó, đặt ra câu hỏi về cơ sở và điều kiện của những hành động như vậy.

 2.2. Cơ sở triết học và nhân học của hành động xã hội 
Thời cổ đại đã phát triển những suy nghĩ triết học và nhân học về "bản chất xã hội” của con người như là cái bản chất thứ hai, nhưng mang tính quyết định. Như vậy, cơ sở triết học để xã hội học xem hành động của con người là hành động xã hội chính là dựa trên quan điểm triết học về bản chất xã hội của con người. Trong luận đề 6 về Feuerbach, Mác viết: "Bản chất con người không phải là một trừu tượng bên trong mỗi cá nhân. Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Người ta thường nói: "Mỗi người là một xã hội nhỏ, mỗi xã hội là một người tổng quát" (trích theo H. Korte, 1995, tr. 21). 


Triết học nhân học xem con người không phải là sản phẩm của bản năng mà là sản phẩm của thiết chế, "cái được xem là bản năng ở động vật, là cái được xem là thiết chế ở con người". Con người có một động lực cao trong việc sáng tạo ra văn hóa, nó không hành động theo sơ đồ đơn giản "kích thích-phản ứng" như động vật, mà bao giờ cũng hành động xuất phát từ một khoảng cách với thế giới. Hành động bao giờ cũng là sự tác động qua lại của cái bên trong và cái bên ngoài, của việc cảm nhận tình huống và cái bên trong của cá nhân. Khác với hành vi, hành động con người mang tính xã hội khi nó diễn ra trên cơ sở theo đuổi các động cơ và mục đích: hành động xã hội là có ý thức, có căn cứ, mang tính phản tỉnh, và định hướng mục tiêu. 

2.3. Ba khái niệm nền tảng của hành động xã hội

Để hiểu được nền tảng của hành động con người, xã hội học đề xuất ba khái niệm cơ bản: "ý nghĩa", "chuẩn mực" và "giá trị". Cùng với khái niệm hành động xã hội, ba khái niệm trên đồng thời là những thành phần tiên nghiệm của xã hội học, tức là đằng sau nó không còn gì để hỏi nữa. 

2.3.1. Ý nghĩa

Weber là người đã đưa “ý nghĩa” trở thành một khái niệm cơ bản trong "xã hội học thấu hiểu" (verstehen) của mình. Ông sử dụng khái niệm ý nghĩa để làm rõ tính đặc thù của hành động con người. Theo ông, để hiểu một hành động nào đó với tính cách là hành động xã hội, thì nhà xã hội học cần phân tích cái ý nghĩa chủ quan trong đó mà các chủ thể hành động đã chia sẻ với nhau. 


George Herbert Mead là người nêu lên câu hỏi nghiên cứu: làm thế nào mà có được sự thích ứng lẫn nhau giữa hành động của các cá nhân khác nhau? Ông cho rằng ý nghĩa chính là yếu tố trung tâm cho sự thích ứng lẫn nhau này. Trong tình huống tương tác, một chủ thể lựa chọn từ nhiều khả năng hiểu khác nhau, tìm ra một cái xác định; ý nghĩa cho phép người tiếp nhận hành động tiến hành một sự giải mã hành động (ý nghĩa của các biểu tượng thể hiện trong hành động). 


Khái niệm "ý nghĩa" (tiếng latin: sensus) bao hàm những cơ sở sau. Thứ nhất, ý nghĩa giúp tạo ra một hình thái đặc thù cho sự cảm nhận, sự cảm nhận này làm cho hành vi của người khác trở nên có ý nghĩa và có thể hiểu được. Thứ hai, thông qua và vượt quá một tình huống hành động cụ thể, nó cho phép nhìn vào nền văn hóa mà nó thể hiện (văn hóa: mối quan hệ giữa các chuẩn mực và giá trị của một hệ thống xã hội). 

2.3.2. Chuẩn mực

Khái niệm chuẩn mực (norm) có nguồn gốc từ tiếng latin, có nghĩa là quy tắc, sợi chỉ xuyên suốt. Người ta thấy chuẩn mực có trong đạo đức theo nghĩa các tiêu chuẩn hành vi, trong mỹ học và logic, trong kỹ thuật và ngôn ngữ hàng ngày. Nói đến chuẩn mực là nói đến một sự đánh giá, phán xử: cái gì phù hợp chuẩn mực tức là bình thường, cái gì ngược với chuẩn mực là lệch chuẩn, bất bình thường. 

Trong lĩnh vực hành động xã hội, chuẩn mực là những quy tắc ứng xử được quy định rõ ràng (explicit), chúng tạo ra sự tiêu chuẩn hóa, điều khiến cho việc lặp lại các hành động và do đó các kỳ vọng hành động trở nên có thể tồn tại được. Giống như hành động xã hội, đối với xã hội học, chuẩn mực xã hội là một thành phần khái niệm tiên nghiệm của xã hội học. Nói cách khác, khái niệm chuẩn mực xã hội không thể được rút ra từ bất kỳ một khái niệm nào khác, nó thể hiện một hiện tượng tối nguyên thuỷ của cái xã hội. 

Durkheim được xem là nhà xã hội học đầu tiên đề xuất vấn đề "tính chuẩn mực của cái xã hội”. Đối với cách hiểu của Durkheim, cái xã hội tồn tại là một hiện thực có thể xác định mang tính sự vật, mà cơ sở của nó nằm trong tính chuẩn mực của các ứng xử xã hội. Ông xem hiện thực này là thế giới của các sự kiện xã hội. Các chuẩn mực xã hội trở thành cái bên ngoài, nó giới hạn ý chí của con người trong quan hệ của họ với nhau. Chuẩn mực hóa có nghiã là sự thiết chế hóa các quy tắc và tiêu chuẩn liên quan với nhau, loại trừ các khả năng khác. Mỗi sự chuẩn mực hóa gắn với một sự lựa chọn, điều này là một nguyên tắc cơ bản của sự hình thành cấu trúc xã hội. Các chuẩn mực tạo ra một khuôn khổ cho hành động, như vậy chúng phải có tính trừu tượng, khác với mọi kiểu hành động cụ thể. Chuẩn mực thể hiện cái chung, "kiểu điển hình" của hành động. Định hướng qua lại của hành động của nhiều cá nhân và việc xây dựng nên các quan hệ xã hội chỉ có thể có được khi các cá nhân hành động trên cơ sở những tiêu chuẩn và quy tắc được biết và được chấp nhận chung. Các tiêu chuẩn và quy tắc này được gọi là các chuẩn mực xã hội. Chuẩn mực xã hội được tiếp nhận trong quá trình xã hội hóa, được nội tâm hóa, và được kết nối trong các quá trình thiết chế hóa. 

Các chuẩn mực thể hiện rất đa dạng, có thể hệ thống hóa chúng theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, theo mức độ chặt chẽ và gắn với nó là mức thưởng phạt: các chuẩn mực buộc phải, cần phải, nên làm. Gắn liền với chuẩn mực là sự phán xử (thưởng phạt). Sự phán xử luôn gắn với tương tác hành động, bởi nếu không thì hành động không thể tiếp tục diễn ra và chuẩn mực không có cơ sở tồn tại. Sự củng cố các chuẩn mực dẫn đến việc hình thành những vai trò xã hội và kiểu hành động. 

2.3.3. Giá trị

Giá trị là các nguyên tắc cơ bản định hướng hành động, chúng là những quan điểm, thái độ về những điều được mong muốn, về những quan niệm dẫn dắt trong văn hóa, tôn giáo, đạo lý và xã hội. Những định hướng giá trị thống trị trong một xã hội là khung cơ bản của văn hóa. Với tính cách là những nguyên tử của đời sống xã hội, các chuẩn mực chỉ có thể vận hành khi các chuẩn mực quan trọng nhất đối với hành động xã hội được kết nối với nhau, khi chúng được theo đuổi như là "đầy giá trị" (quan trọng, đúng đắn, chân lý) theo một ý nghĩa có tính đạo lý. Giá trị là những "chỉ dẫn đạo lý" dẫn dắt hành động con người. Chúng biểu hiện các ý nghĩa và mục tiêu mà các cá nhân và nhóm gắn với hành động của họ. 


2.4. Những tiên đề của xã hội học hành động xã hội

Dựa trên những khái niệm có tính tiên nghiệm trình bày ở trên, xã hội học hành động xã hội đưa ra một số tiên đề nghiên cứu có thể tóm tắt dưới đây.

- Con người hành động trong các tình huống nhất định trên cơ sở của các ý nghĩa mà tự họ gắn vào các hành động của bản thân và của đối tác. 


- Khi đi vào các tình huống hành động cụ thể mỗi người đều đã có một tri thức hàng ngày được cấu trúc hóa trước đó. Thế giới trong đó anh/chị ta hành động đã là một thế giới văn hóa, được lý giải. Đối với anh/chị ta là một thế giới có một ý nghĩa cụ thể.

- Hành động là một quá trình có tính lý giải, diễn ra một cách mới/khác đi với các đối tác hành động. Trong quá trình đó, các ý nghĩa cấu trúc hóa nên những kỳ vọng.

- Mỗi cá nhân đều ở trong tình trạng "hiểu ý nghĩa".

- Các cá nhân hình thành từ xã hội hóa, tức là từ việc được trang bị các chuẩn mực và giá trị.

- Văn hóa là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị mà con người có thể hiểu được nó và chịu sự dẫn dắt của nó.

- Con người đi tìm kiếm ý nghĩa và các giá trị văn hóa dẫn dắt nó.

3. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ LÝ THUYẾT VỀ HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI
3.1. Những đặc trưng của thuyết hành động phân biệt với thuyết cấu trúc 
Trong một cách nhìn đơn giản hóa, các lý thuyết xã hội học phân thành hai hướng chính: quan điểm cấu trúc và quan điểm hành động xã hội. Một số lý thuyết theo quan điểm sau, thay vì xem hành vi con người chủ yếu bị quyết định bởi xã hội, thì lại xem xã hội là sản phẩm của hoạt động con người. Chúng nhấn mạnh vào tính có ý nghĩa của hành vi con người, không cho rằng điều này trước hết bị chi phối bởi cấu trúc xã hội. Tiếp cận này thường gọi bằng nhiều tên: tiếp cận hành động xã hội, xã hội học diễn giải, xã hội học vi mô, tương tác luận. 

Xã hội học hiện đại có hai biến thể chính của kiểu xã hội học này: đó là tương tác luận biểu trưng (symbolic interactionism) và phương pháp luận thực hành (ethnomethodology). Tương tác luận biểu trưng giải thích hành vi con người và xã hội thông qua việc xem xét cách thức mà con người lý giải hành động của người khác, phát triển một tự quan niệm hay là tự hình ảnh về bản thân, và hành động theo cách có ý nghĩa. Một số nhà tương tác luận biểu trưng thừa nhận sự tồn tại của cấu trúc xã hội, nhưng cho rằng các cấu trúc này là có tính lỏng, thường xuyên biến đổi thích ứng với tương tác. Phương pháp luận thực hành không thừa nhận sự tồn tại của cấu trúc xã hội. Đối với nhà phương pháp luận thực hành, thế giới xã hội bao gồm những xác định và những sự phạm trù hóa các thành viên xã hội. Các ý nghĩa chủ quan chính là hiện thực xã hội. Công việc của nhà xã hội học là lý giải, mô tả, và trên hết là thấu hiểu cái hiện thực chủ quan ấy. 


Nhà lý thuyết hành động khác với nhà xã hội học cấu trúc ở ba điểm: thứ nhất, họ chú ý đến tương tác vi mô hơn là toàn bộ xã hội. Thứ hai, họ không tán thành ý tưởng về một hệ thống xã hội có tính cố kết. Thứ ba, họ không cho rằng hành động con người chỉ đơn giản là sản phẩm của hệ thống xã hội bao quanh. Các lý thuyết hành động không chỉ nói đến hành động, mà họ chủ yếu nói đến tương tác. Chính vì vậy mà đôi khi quan điểm hành động được gọi là tương tác luận. Nhà tương tác luận quan tâm tìm hiểu quá trình tương tác giữa các cá nhân với những giả định dưới đây.

- Con người gán ý nghĩa cho các hành động của họ.

- Ý nghĩa là khía cạnh trọng tâm của hành động.

- Để hiểu hành động cần phải lý giải các ý nghĩa mà các tác nhân gán vào những hoạt động của họ.

- Các ý nghĩa không phải là những tổng thể cố định, chúng phụ thuộc vào bối cảnh và sự tiến triển của chuỗi tương tác. Chúng được tạo ra, phát triển, cải biến, biến đổi trong quá trình tương tác thực tế. Như vậy, hiện thực xã hội được kiến tạo nên bởi tương tác gắn với sự biến đổi của các ý nghĩa.


Tự quan niệm (self-concepts). Trong tương tác, hành động của một chủ thể phụ thuộc một phần vào việc chủ thể đó lý giải cái cách mà các chủ thể khác nhìn và đánh giá mình. Vì vậy, tương tác luận chú ý đến ý tưởng về bản ngã: các cá nhân phát triển các "tự quan niệm", tức là bức tranh về bản thân, điều có ảnh hưởng quan trọng đến hành động của họ. Một "tự quan niệm" được phát triển từ các quá trình tương tác, bởi vì phần lớn nó là sự phản ánh của những phản ứng của người khác đối với mình. Các chủ thể có xu hướng hành động theo cái tự quan niệm của họ. Charles Cooley (1902) đã nêu lên khái niệm "cái tôi phản chiếu" (looking glass self) để nói về điều này. 


Kiến tạo ý nghĩa. Khi nhà tương tác luận quan tâm đến những định nghĩa tình huống và bản ngã, họ cũng phải tính đến quá trình trong đó các định nghĩa này được kiến tạo nên. Câu hỏi ở đây là việc kiến tạo ý nghĩa đã diễn ra như thế nào trong quá trình tương tác. Điều này đòi hỏi phân tích cái cách mà các chủ thể lý giải hành động của người khác và đòi hỏi phải hiểu được việc lý giải đó của các chủ thể trong bối cảnh mà ở đó tương tác đã diễn ra. 

Sự dàn xếp (negotiation) vai trò
. Cả nhà cấu trúc luận lẫn tương tác luận đều công nhận khái niệm vai trò, nhưng họ hiểu khác nhau. Nhà cấu trúc luận xem vai trò là do hệ thống xã hội đem lại, con người đóng các vai trò của mình theo kịch bản mà hệ thống xã hội đã đưa ra. Nhà tương tác luận cho rằng các vai trò thường là không rõ ràng, khó hiểu, mơ hồ, nhập nhằng, mập mờ. Trạng thái này đem lại cho chủ thể một không gian đáng kể cho sự dàn xếp, thương thảo, thao diễn, ứng biến, sáng tạo hành động. Nói cách khác, vai trò chỉ cung cấp một bản chỉ dẫn rất chung cho hành động. Vấn đề là các vai trò đã được thực thi như thế nào trong tình huống tương tác. Vai trò hôn nhân và các cuộc hôn nhân thực tế là minh hoạ sinh động cho điều nói trên.

Như vậy, tương tác luận tập trung vào qúa trình tương tác trong các bối cảnh cụ thể. Mọi hành động xã hội đều là có ý nghĩa. Do đó chỉ có thể hiểu được hành động khi phát hiện ý nghĩa mà các chủ thể gắn vào hoạt động của họ. Các ý nghĩa chỉ đạo hành động, nhưng cũng hình thành nên từ hành động. Chúng không cố định, không phải được đưa từ bên ngoài vào một lần là xong, mà được kiến tạo và dàn xếp trong quá trình tương tác. Trong khi tương tác với chủ thể khác, một chủ thể phát triển nên một tự quan niệm, điều có một hậu quả quan trọng, bởi vì chủ thể có xu hướng hành động theo cái định nghĩa mà anh ta tự quan niệm về bản thân. Việc hiểu sự kiến tạo ý nghĩa và tự quan niệm bao gồm việc đánh giá cách thức mà các chủ thể lý giải quá trình tương tác.


Quan điểm hành động xã hội cho rằng đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên và xã hội có những khác biệt căn bản; do đó phương pháp và các giả định của khoa học tự nhiên không thích hợp với việc nghiên cứu con người. Đối tượng của khoa học tự nhiên liên quan đến các sự vật, để hiểu và giải thích chúng chỉ cần quan sát chúng từ bên ngoài. Các sự vật không có ý nghĩa và ý định, chỉ đạo sự vận động của chúng. Trong khi đó, con người có ý thức: suy nghĩ, cảm xúc, ý định, nhận thức về bản thân. Do đó, hành động của con người là có ý nghĩa: họ định nghĩa tình huống, gán các ý nghĩa cho hành động của mình và người khác, lý giải và hành động trên cơ sở những lý giải đó. Nếu như hành động nảy sinh từ các ý nghĩa chủ quan, thì nhà xã hội học phải phát hiện ra những ý nghĩa này thì mới hiểu được hành động. Họ không thể đơn giản chỉ quan sát hành động từ bên ngoài, tạo ra một logic áp đặt từ bên ngoài để giải thích nó, họ phải lý giải logic bên trong chỉ đạo các hành động của chủ thể. 

Các nhà hành động xã hội không cho rằng xã hội có một cấu trúc rõ ràng chỉ đạo cá nhân hành động theo những cách thức xác định. Một số trong họ không phủ nhận sự tồn tại cấu trúc xã hội, nhưng cho rằng cấu trúc nảy sinh từ hành động của các cá nhân. Weber công nhận sự tồn tại của cấu trúc xã hội, nhưng phê phán quan điểm của Durkheim theo đó xã hội tồn tại một cách độc lập với các cá nhân. Tương tác luận biểu trưng công nhận có sự tồn tại của các vai trò xã hội, nhưng không cho rằng các vai trò đó là cố định, rõ ràng, được định hình bởi các "nhu cầu" của hệ thống xã hội. Hiện tượng luận và phương pháp luận thực hành còn cấp tiến hơn khi chúng không thừa nhận sự tồn tại của bất kỳ cấu trúc nào. Chúng cho rằng tất cả những gì mà nhà xã hội học phải làm là thấu hiểu và lý giải hành vi con người, phát hiện ra ý nghĩa đằng sau đó. 

3.2. Quan niệm của Mác: con người sáng tạo lịch sử 
Mác thường được xem là nhà cấu trúc luận và thực chứng luận, vì nghiên cứu của ông chủ yếu ở cấp độ vĩ mô, ông đặt cho mình nhiệm vụ khám phá những cấu trúc xã hội khách quan, ẩn ngầm bên dưới chi phối đời sống xã hội, và ông xem sự phát triển xã hội như là một tiến trình lịch sử-tự nhiên. Tuy nhiên, hiểu Mác như thế là không đầy đủ mặc dù không sai. Mác rất chú trọng đến cái mà ta có thể gọi là tiếp cận hành động xã hội, cả ở những luận điểm cũng như ở những công trình nghiên cứu cụ thể mà Mác đã làm. 


Mác có một định nghĩa về xã hội như sau: "Xã hội - bất cứ dưới hình thái nào - là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người" (Marx, 1976, tr. 7). Khi phân tích diễn biến của Công xã Pari, Mác đề cập: “... nếu những 'sự ngẫu nhiên' không có tác dụng gì cả thì sự sáng tạo ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thần bí. Đương nhiên, những sự ngẫu nhiên này là một bộ phận trong quá trình phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên khác bù trừ lại. Nhưng phát triển nhanh hay chậm, là phụ thuộc rất nhiều vào những 'sự ngẫu nhiên’ như vậy, kể cả ‘sự ngẫu nhiên’ như tính cách của những người lúc đầu lãnh đạo phong trào" (Marx, 1976, tr. 50). 


Trong một bức thư viết năm 1890, Friedrich Engels nói rõ: "Chúng ta tự sáng tạo ra lịch sử của chúng ta, nhưng một là sáng tạo với những tiền đề và những điều kiện hết sức rõ ràng... Hai là lịch sử đã diễn ra theo cái hướng là kết quả cuối cùng luôn luôn phát sinh từ những sự xung đột giữa nhiều ý chí cá nhân, mỗi ý chí cá nhân này lại do vô số những điều kiện sinh sống đặc biệt tạo ra" (Marx, 1976, tr. 96 và 97). Ông cũng nhấn mạnh sự khác nhau giữa sự phát triển của tự nhiên và của xã hội ở một điểm căn bản: "Trái lại, trong lịch sử của xã hội, những nhân tố hoạt động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có ham mê, và theo đuổi những mục đích nhất định; không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự  giác, không có mục đích mong muốn" (Marx, 1963, tr. 357-358). 

3.3. Hành động xã hội trong quan niệm của Weber
Weber được xem là nhà xã hội học đầu tiên khởi xướng quan điểm hành động xã hội. Theo ông, đối tượng đích thực của xã hội học là hành động xã hội. Ông nói: "Xã hội học... là một khoa học cố gắng hiểu theo kiểu diễn giải hành động xã hội để bằng cách đó đạt tới việc giải thích nhân quả về chuỗi hành động và tác động của nó. 'Hành động' là hành vi con người khi và chỉ trong chừng mực khi cá nhân đang hành động gắn một ý nghĩa chủ quan vào đó" (Bailey, 2003, tr. 185). 

Với Weber, hành động xã hội là hành động hướng đến những người khác có ý nghĩa và hướng đến cái mà chủ thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. Ông cho rằng giải thích xã hội học đối với hành động phải bắt đầu bằng việc quan sát và lý giải trạng thái tinh thần chủ quan. Trong khi nhà thực chứng luận nhấn mạnh đến sự kiện và quan hệ nhân quả, thì nhà hành động luận nhấn mạnh đến sự thấu hiểu. Vì không thể đi vào bên trong đời sống tinh thần của chủ thể, nên nhà xã hội học phải phát hiện các ý nghĩa, đạt được sự thấu hiểu bằng phương pháp lý giải, mà không thể bằng đo lường khách quan. Vì các ý nghĩa thường xuyên được dàn xếp trong quá trình tương tác, nên không thể thiết lập được các quan hệ nhân quả đơn giản. Weber thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù như giai cấp, đảng phái, nhóm vị thế, quan liêu. Nhưng tất cả những cái đó đều được tạo nên bởi những cá nhân đang thực hiện hành động xã hội. Do đó, theo Weber, hành động xã hội phải là tâm điểm của xã hội học. 

3.3.1. Định nghĩa hành động xã hội
Theo quan niệm của Weber, một hành động xã hội là một hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội. 

Weber cho rằng xã hội học cố gắng diễn giải hành động nhờ phương pháp luận về kiểu loại lý tưởng (ideal type). Ông thực hành phương pháp này để xây dựng một phân loại học về hành động xã hội gồm bốn kiểu: kiểu hành động truyền thống (traditional) được thực hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế từ xưa đến nay; kiểu hành động cảm tính (affectual) bị dẫn dắt bởi cảm xúc; kiểu hành động duy lý-giá trị (value-rational) hướng tới các giá trị tối hậu, kiểu hành động duy lý-mục đích (end-rational) hay còn gọi là kiểu hành động mang tính công cụ (instrumental). 

3.3.2. Cách giải thích hành động xã hội
Trước khi có thể tìm ra nguyên nhân của một hành động, cần phải hiểu được ý nghĩa mà chủ thể hành động đã gắn vào hành động đó. Weber phân biệt hai kiểu thấu hiểu. Thứ nhất, hiểu trực tiếp (aktuelles Verstehen). Chẳng hạn, có thể hiểu được một người đang giận dữ bằng cách quan sát biểu hiện trên nét mặt người đó. Kiểu thứ hai là sự thấu hiểu mang tính giải thích (erklaerendes Verstehen). Nhà xã hội học, ở đây, hiểu ý nghĩa của một hành động theo nghĩa là những động cơ gắn vào đó. Cách hiểu thứ hai là phải hiểu được vì sao người ấy đang giận dữ. Để đạt được kiểu hiểu này, ta phải đặt mình vào tình huống của người ấy để hiểu được những động cơ đằng sau hành động. Tuy nhiên, theo Weber, hai kiểu hiểu trên vẫn chưa đủ để giải thích được một chuỗi hành động. Để có một giải thích nguyên nhân đầy đủ, cần phải xác định cái gì đã tạo nên động cơ dẫn đến chuỗi hành động. Đến chỗ này, Weber lại tiến đến tiếp cận thực chứng luận: ông cho rằng phải phát hiện được mối liên hệ giữa các sự kiện, thiết lập các quan hệ nhân quả. Weber cho rằng các hành động xã hội, nhất là những hành động xã hội lôi kéo số lớn người cùng hành động theo một cách tương tự có thể dẫn đến những biến đổi xã hội quy mô lớn. Ngay cả khi liên quan đến các nhóm, thiết chế, tổ chức, thì Weber vẫn cho rằng chúng liên quan đến một kiểu nhất định của các hành động xã hội của các cá nhân. 

3.4. Thuyết tương tác biểu trưng

Theo Herbert Blumer (1969), một trong những nhà tương tác biểu trưng chủ chốt và là học trò của Mead, tương tác luận biểu trưng dựa trên ba luận đề. Thứ nhất, con người hành động trên cơ sở các ý nghĩa mà họ gán cho các đối tượng và sự kiện hơn là hành động nhằm phản ứng lại với những kích thích bên ngoài như các động lực xã hội hay với những kích thích bên trong như các bản năng. Do đó, tương tác luận biểu trưng phủ nhận cả quyết định luận sinh học lẫn quyết định luận mang tính thiết chế xã hội. 

Thứ hai, các ý nghĩa nảy sinh từ quá trình tương tác hơn là có ngay từ khi bắt đầu và định hình hành động tương lai. Các ý nghĩa được sáng tạo, cải biến, phát triển và thay đổi trong các tình huống tương tác hơn là được cố định và xác định trước. Trong quá trình tương tác, chủ thể không tuân thủ một cách nô lệ các chuẩn mực được xác định trước, cũng không máy móc thực hiện các vai trò được thiết lập chính thức. 

Thứ ba, các ý nghĩa là kết quả của những thủ tục lý giải mà các chủ thể thực hiện trong bối cảnh tương tác. Bằng việc đóng vai trò của người khác, chủ thể lý giải các ý nghĩa và ý định của người khác. Bằng cơ chế "tự tương tác", các cá nhân biến cải hoặc thay đổi các xác định của họ về tình huống, nhẩm lại các chuỗi hành động thay thế hay loại trừ nhau (alternative), và cân nhắc những hậu quả khả dĩ. Như vậy, các ý nghĩa chỉ đạo hành động nảy sinh trong quá trình tương tác thông qua một chuỗi những thủ tục lý giải phức tạp. 

Một số nhà tương tác luận cho rằng họ khác căn bản với những quan điểm hành động xã hội khác. Họ cho rằng cần phải nhìn xã hội như là một quá trình tương tác không ngừng, bao gồm các chủ thể liên tục điều chỉnh và lý giải các tình huống với nhau. Trong đánh giá của nhà tương tác luận, các quan điểm xã hội học khác có xu hướng phác hoạ hành động như là một sự phản ứng máy móc với những câu thúc của hệ thống xã hội. Như vậy, hành động được xem như là sản phẩm của các yếu tố bên trên và thông qua con người. Thay vì là kẻ sáng tạo ra thế giới xã hội của chính mình, con người lại được phác hoạ là kẻ phản ứng thụ động với những câu thúc bên ngoài. Hành động của họ bị định hình bởi những "nhu cầu" của hệ thống, bởi các giá trị, chuẩn mực và vai trò với tính cách là các phần tử của hệ thống. Không chấp nhận cách nhìn trên, Blumer nhấn mạnh rằng con người là những chủ thể tích cực, hành động trên cơ sở những ý nghĩa mà họ gán vào tương tác xã hội của họ. Đây là quá trình xã hội trong đời sống nhóm, nó tạo ra và xác nhận các quy tắc, chứ không phải các quy tắc tạo ra và xác nhận đời sống nhóm. 

Nhà tương tác luận đồng ý rằng ở mức độ nhất định, hành động được cấu trúc hóa, được thường lệ hóa. Nhưng những hiểu biết về tương tác có trước đó chỉ là những chỉ dẫn chung, không phải là một đơn thuốc chính xác và chi tiết cho hành động mà người ta máy móc tuân theo trong mọi tình huống. Trong các chỉ dẫn đó có một không gian đáng kể cho việc thao diễn, thương thảo, điều chỉnh lẫn nhau và lý giải. Thừa nhận sự có thật của các thiết chế xã hội, nhà tương tác luận vẫn cho rằng mặc dù ở đây có những chỉ dẫn chặt chẽ cho hành động, song các hành động được tiêu chuẩn hóa vẫn được kiến tạo nên bởi các chủ thể chứ không phải bởi các hệ thống xã hội.
3.5. Một cố gắng tổng hợp của Parsons
Sự nghiệp nghiên cứu của Parsons có thể chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu đánh dấu bằng công trình "The Structure of Social Action" (Cấu trúc của hành động xã hội, 1937), trong đó ông cố gắng tổng hợp di sản của Weber, Durkheim và Vilfredo Pareto, đưa ra lý thuyết hành động xã hội tự giác (voluntaristic). Giai đoạn hai ông xây dựng lý thuyết chức năng cấu trúc, thể hiện trong "The Social System" (Hệ thống xã hội, 1951). Giai đoạn ba Parsons đưa ra mô hình điều khiển học về các hệ thống xã hội và biến đổi xã hội với hai công trình: "Societies: Evolutionary Comparative Perspectives" (Các xã hội: những quan điểm so sánh tiến hóa, 1966) và "The System of Modern Societies" (Hệ thống của các xã hội hiện đại, 1971). 

Trong lý thuyết hành động tổng quát, Parsons mượn quan điểm của Weber: cốt lõi của mọi hành động xã hội là ý nghĩa, do đó để hiểu được hành động phải hiểu được ý nghĩa gắn với hành động đó. Mặt khác, Parsons cũng chấp nhận quan điểm của Durkheim rằng có một trật tự đạo đức điều khiển xã hội. Từ đó, Parsons xây dựng khái niệm "khung tham chiếu hành động" (action frame of reference), cụ thể hóa hơn lập luận của Weber. 

Để hiểu hành động cần hiểu được bản chất chủ quan của hành động, tức là hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng tiếp đó phải tiến đến phân tích các mục tiêu và phương tiện xung quanh hành động, những điều này nảy sinh trong bối cảnh các giá trị và chuẩn mực hình thành một cách tập thể. Đây chính là khung tham chiếu hành động, trong đó là sự định hướng mang tính chuẩn mực của con người định hướng vào các niềm tin, giá trị, chuẩn mực. Như vậy, nếu ý nghĩa là thành phần cơ bản của hành động trong quan niệm của Weber, thì đối với Parsons chính cái định hướng chuẩn mực nói trên mới là thành phần cơ bản của hành động. 


Khái niệm "khung tham chiếu hành động" giúp Parsons giải thích về trật tự xã hội: xã hội vận hành thông qua hành động xã hội, hành động xã hội được cấu trúc hóa, mang tính chuẩn mực, bởi những giá trị hình thành một cách tập thể trong xã hội. Con người là chủ thể, tìm kiếm việc tối đa hóa phần thưởng thông qua hành động. Hành động nhằm đạt được mục đích đó được thiết chế hóa vào một cơ cấu (hierarchy) các vị thế và vai trò. 

Tiến trình tư tưởng của Parsons minh họa cho sự chuyển dịch và tổng hợp của một xã hội học đi từ tiếp cận hành động đến hệ thống. Thoạt tiên, Parsons xuất phát từ tiếp cận hành động. Ông cho rằng nhiệm vụ phân tích đầu tiên của lý luận xã hội học là phải cách ly được trên khái niệm một đơn vị cơ bản nhất mà từ đó các quá trình và cấu trúc phức tạp đã được xây dựng nên. Trong trường hợp này, đó là hành động xã hội. Logic tư duy của Parsons tương tự cách mà Mác đã làm trong bộ "Tư bản": đi từ việc phân tích "hàng hóa" như là xuất phát điểm để phân tích toàn bộ xã hội tư bản chủ nghĩa. 

Parsons đưa ra quan niệm "voluntarism", theo nghĩa như là những quá trình ra quyết định mang tính chủ quan của chủ thể, nhưng những quyết định này lại là kết quả của những câu thúc mang tính chuẩn mực cũng như của tình huống. Như vậy, hành động chủ động bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây: 
- Chủ thể hành động là những cá nhân.

- Các chủ thể theo đuổi các mục đích.

- Chủ thể phát triển các phương tiện khác nhau để đạt mục đích.

- Chủ thể đối mặt với những hoàn cảnh khác nhau, những hoàn cảnh này tác động đến việc lựa chọn mục đích và phương tiện.

- Chủ thể bị điều khiển bởi các giá trị và chuẩn mực tác động đến việc lựa chọn mục đích và  phương tiện.


Từ lý luận hành động xã hội Parsons đi đến lý luận về hệ thống xã hội. Chủ thể được định hướng vào các tình huống bởi động cơ và giá trị, gọi là các phương thức định hướng. Có ba kiểu động cơ: nhận thức (nhu cầu thông tin), cảm xúc (cathectic, nhu cầu gắn kết mang tính cảm xúc), và lượng định (nhu cầu về sự đánh giá). Tương tự là ba kiểu giá trị: nhận thức (lượng định theo chuẩn khách quan), tán thưởng (lượng định theo chuẩn thẩm mỹ), và đạo đức (lượng định theo sự đúng sai). 

Những phương thức định hướng khác nhau ở chủ thể tạo ra những kiểu hành động khác nhau. Theo Parsons, có ba kiểu hành động: công cụ (hành động định hướng rõ ràng vào việc thực hiện mục tiêu một cách hiệu quả), biểu cảm (hành động nhằm thoả mãn cảm xúc), và đạo đức (hành động liên quan đến việc thực hiện chuẩn mực về sự đúng sai). 

Khi các chủ thể với những định hướng hành động nhất định tương tác với nhau, họ sẽ tạo ra những thoả thuận và khuôn mẫu tương tác, dẫn đến sự thiết chế hóa. Các khuôn mẫu được thiết chế hóa, theo Parsons, chính là hệ thống xã hội (Sơ đồ 1). 

Sơ đồ 1. Hành động, tương tác và thiết chế hoá trong lý luận của Parsons
______________________________________________________
Phương thức > Kiểu hành> Tương tác> Thiết chế> Hệ thống xã hội
định hướng     động              giữa các      
hoá  sự       của các vị                                                       chủ thể        tương tác   thế, vai trò,                                                                                           chuẩn mực                                                                                                    
Động cơ                Công cụ
  Nhận thức           Biểu cảm
  Cảm xúc             Đạo đức
  Lượng định
Giá trị
  Nhận thức
  Tán thưởng
  Đạo đức
______________________________________________________
Nguồn: Turner, 1998: trang 31.


Người ta có thể mô tả lý thuyết hành động của Parsons như trong Sơ đồ 2. Sơ đồ lý thuyết bắt đầu bằng một chủ thể, người đóng vai trò (cá nhân hay một tập thể). Chủ thể có động cơ hành động để đạt được một mục đích mà hệ thống văn hóa đã xác định. Hành động tiến hành trong một tình huống gồm các phương tiện (công cụ, nguồn lực) và điều kiện (trở ngại, câu thúc), chúng làm cho tình huống mang tính không ổn định, không chắc chắn. Mọi yếu tố trên chịu sự điều chỉnh của các tiêu chuẩn mang tính chuẩn mực của hệ thống xã hội. Chủ thể không thể bỏ qua các quy tắc, chúng quy định các mục đích và cách mà chủ thể phải ứng xử, những kỳ vọng mang tính chuẩn mực phải được chủ thể đáp ứng, người đã được gắn cho động cơ theo đuổi các mục đích. Các chuẩn mực được nội tâm hóa, nên chủ thể được tạo nên động cơ hành động một cách tương thích. Các chuẩn mực được hệ thống văn hóa hợp pháp hóa. 

Sơ đồ 2. Sơ đồ lý thuyết hành động của Parsons
___________________________________________________
Tình huống:         phương tiện và điều kiện
Chủ thể được -----------------------------------------------> Mục đích
gắn động cơ        Các tiêu chuẩn mang tính chuẩn mực
______________________________________________________
Nguồn: Dựa trên Wallace and Wolf. 1998: trang 29.

3.6. Hành động luận và can thiệp xã hội học: Alain Touraine
Mặc dù, ngay từ đầu lịch sử xã hội học đã xuất hiện song đề cấu trúc đối lập hành động, phản ánh hai khuynh hướng tương phản nhau trong xã hội học, song thuật ngữ hành động luận (actionalism) chỉ xuất hiện trong thập niên 1960 gắn với tên tuổi của Alain Touraine, một nhà xã hội học Pháp. Ông muốn thay thế một xã hội học về xã hội bằng một xã hội học về chủ thể hành động. Hành động luận của Touraine chủ trương đặt tác nhân (chủ thể, actor) vào vị trí trung tâm của xã hội học: tác nhân không phải là bộ phận hợp thành mà là chủ thể của hệ thống xã hội. Đi xa hơn, Touraine cho rằng điều này là để nói cả đến nhà xã hội học nữa: anh/chị ta cũng là một tác nhân trong đó, có lập trường rõ ràng chứ không phải là cố gắng càng "khách quan" càng tốt như nhiều trường phái lý thuyết khác chủ trương. Vì vậy, nhà xã hội học cần cam kết với một chủ thuyết đồng thời là một phương pháp mà ông gọi là "can 
thiệp xã hội học" (sociological interventionism). 

Do sự phát triển của sản xuất và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin và viễn thông, xã hội hậu công nghiệp hoặc xã hội công nghiệp hóa phát triển đầy đủ có những khả năng chưa từng thấy trong việc sử dụng và chi phối quyền lực, dẫn đến khả năng “làm nên lịch sử” (một mệnh đề then chốt trong lập luận của Mác). Tuy nhiên, theo Touraine, phần đông công dân còn bị nhiều trở ngại trong tiếp cận với những nguồn lực ấy. Các phong trào xã hội có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc khắc phục tình trạng trên. Nói cách khác: những hành động xã hội tích cực "làm nên lịch sử" phải là trung tâm của đời sống xã hội hôm nay, và do đó của nghiên cứu xã hội học. Theo hành động luận với tính cách là quan điểm lý thuyết và theo can thiệp xã hội học với tính cách là phương pháp rút ra từ quan điểm lý thuyết ấy, thì nhà xã hội học phải trở thành một thành viên đầy đủ và tích cực của phong trào xã hội. Đó là "thực địa xã hội học" (sociological fieldwork) của nhà nghiên cứu. Touraine cho rằng xã hội học hành động như ông chủ trương dĩ nhiên sẽ đầy mâu thuẫn, nhưng sẽ đa dạng hơn và hợp lý hơn. 

3.7. Một cố gắng tổng hợp nữa của Giddens 
Giddens cố gắng khắc phục sự khác biệt giữa tiếp cận cấu trúc và tiếp cận hành động xã hội. Ông cho rằng thông thường các nhà lý luận hoặc đặt mình vào cấu trúc và tính chất câu thúc của chúng, hoặc vào hành động và ý nghĩa. Giddens chủ trương vùng nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội chẳng phải là kinh nghiệm của các chủ thể, cũng chẳng phải là sự tồn tại của một hình thái tổng thể xã hội nào, mà là các thực tiễn xã hội được xếp đặt qua không gian và thời gian (Giddens, 1984). Luận điểm cơ bản của ông rất đơn giản: cấu trúc và hành động là hai mặt của một đồng xu. Cả cấu trúc lẫn hành động không thể tồn tại một cách độc lập, chúng liên quan với nhau một cách sâu sắc. Hành động xã hội tạo nên cấu trúc, thông qua hành động mà cấu trúc được sản xuất và tái sản xuất. Cấu trúc vừa hạn chế vừa là nguồn lực của hành động. Từ đó, Giddens đề xuất thuật ngữ "cấu trúc hóa" (structuration). Để giải thích luận điểm của mình, Giddens lấy ví dụ về sự liên hệ và khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói. Ngôn ngữ thể hiện một cấu trúc các quy tắc phải tuân theo để có thể hiểu được nhau. Nhưng lời nói là thực tế các hành động trong ngôn ngữ, các quy tắc ngôn ngữ quy định lời nói nhưng cũng là nguồn lực cho lời nói, lời nói lại tạo ra và tái tạo ra ngôn ngữ. 

4. THAY LỜI TẠM KẾT: NHỮNG HÀM Ý THỰC TIỄN

Xã hội học là một khoa học về xã hội, vì thế mọi người ở mọi lĩnh vực và cấp độ hoạt động đều có thể và nên vận dụng vào cuộc sống, cho nên những hàm ý (implication) của mọi tri thức xã hội chắc chắn thể hiện ra ở mọi cấp độ. Trên giá nhiều cửa hàng sách, ta luôn thấy cả loạt những cuốn dạy ta hiểu cách sống (tức là cách quan hệ với người khác) trong hôn nhân và gia đình, trong thương trường và nơi làm việc. Người ta cũng dạy cả cách cư xử với chính bản thân mình nữa. Khi tư vấn cho ta, những tác giả ấy đề cập vấn đề từ cấp độ triết học đến những kỹ năng cụ thể. Đằng sau mọi phiên bản đa dạng của những cuốn sách kiểu ấy, cái chung của chúng là "triết lý về hành động xã hội”. Ấy là, đối tượng ("công việc") duy nhất của chúng ta, những con người, là hành động của mình và của người khác; và hành động xã hội có nghĩa là những "ý nghĩa" gắn với hành động. Do đó, hãy cố gắng hiểu (thông điệp) hành động của người khác và đưa ra (thông điệp) hành động của mình một cách "đúng". Tiếp nữa, tương tác hành động tuân theo và đồng thời) tạo ra những khuôn mẫu, hiển nhiên chúng là sự câu thúc (hạn chế, định hình) hành động của chúng ta, nhưng cũng có thể (và thực ra là như vậy) chỉ là "khung tham khảo". Nghĩa là ta cần và có thể "làm khác đi", "vượt lên" chúng, coi chúng là "nguồn lực" của hành động chứ không phải là cái "lồng sắt" (chữ dùng của Weber) phải tuyệt đối tuân thủ. Từ khóa then chốt của những cuốn "giáo trình về cách sống" này là "tích cực" (active), "thay đổi" (change), "khác đi" (alternatives), breaking rules (bẻ gãy các quy tắc), why not (tại sao không), v.v. Điều đúng với cấp độ cá nhân thì cũng đúng với mọi cấp độ trên cá nhân: gia đình, tổ chức, cộng đồng, thiết chế, nhà nước, dân tộc, loài người. Vì thực ra ở cấp độ nào dù lớn đến đâu thì đơn vị tác nhân (unit of agency) vẫn là những cá nhân cụ thể.

Theo quan sát của tác giả bài viết, hiện nay nhiều chương trình giảng dạy và giảng viên môn xã hội học hoặc những lĩnh vực liên quan đến xã hội học vẫn dựa trên những mặc định tư tưởng và tập quán đã bị vượt qua trên thế giới từ vài thập niên trước (quá nhấn mạnh vào quy luật, cấu trúc, tính tất yếu,...). Về mặt học thuật, chỉ nói đến khía cạnh này thì hoàn toàn không phản ánh đầy đủ diện mạo tư tưởng xã hội hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Quan trọng nữa là về mặt thực tiễn, thông điệp hàm ý (hoặc ẩn ngầm hoặc không có ý thức) của nó có xu hướng khích lệ người ta chỉ thấy một chiều những câu thúc, chấp nhận những "tính tất yếu", "cái xã hội khách quan", và một diễn ngôn thông dụng hơn trong đời thường: định mệnh, số phận. Kết quả phụ kèm theo là nó không trang bị cho người ta tính sẵn sàng thay đổi, đón nhận vai trò "chủ thể hành động". Sự nhấn mạnh thái quá và một chiều nói trên thể hiện khuynh hướng tôi muốn gọi là "bái cấu trúc giáo" (vận dụng khái niệm bái vật giáo của Mác).


Xã hội học hành động xã hội giúp ta chú ý và nhấn mạnh đến một chiều cạnh khác của hiện thực xã hội đối lập với hệ tri thức mà tôi tạm gọi là hệ tri thức chức năng-cấu trúc-tiến hóa; trong hiện thực xã hội của xã hội học hành động, có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Điều này rất quan trọng cho những con người đang sống trong những xã hội biến đổi nhanh: nó chỉ cho họ thấy rằng người ta có thể tạo nên tương đối nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã hội. Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hóa", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người. 

Xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ. Nếu so sánh với khu vực và thế giới, khó có thể dự đoán rằng, với nhiều cách thức mà ta làm trong 15 năm qua, thì có thể khắc phục được sự tụt hậu của mình hay không. Do đó, việc nhấn mạnh vào chủ thể hành động như trong xã hội học hành động là rất quan trọng đối với người Việt Nam. Bởi vì ta đang cần thoát khỏi sự câu thúc của các "định luật" cấu trúc-tiến hóa, gồm cả sự câu thúc của những tri thức phụ thuộc vào chúng, thay vào đó là chủ động tổ chức nên những cấu trúc-chức năng hiện tại của thời đại, thông qua chủ thuyết nhấn mạnh vào hành động xã hội. Như Mác đã nói: con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, và như xã hội học hành động hiện đại nói: cấu trúc và thiết chế là do con người tạo ra. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bailey, Gordon and Noga Gayle. Editor. 2003. Social Theory. Essential Readings. Oxford: Oxford University Press. 
2. Bilton, Tony et al. 2002. Introductory Sociology. 1981, 1987, 1996, 2002 ed. Hampshire and New York: Palgrave Macmillan. 
3. Blumer, Herbert. 1969. Symbolic Interactionism: Perspective and Method. Englewood Cliffs (N.J.): Prentice-Hall. 
4. Bùi Quang Dũng. 2004. Nhập môn lịch sử xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 
5. Bùi Thế Cường. 2001. Bầu cử Hội đồng nhân dân ở làng xã miền Bắc: Từ một đánh giá nhanh nông thôn. Tạp chí Xã hội học. Số 3/2001. 
6. Bùi Thế Cường. 2003. HIV/AIDS ở nơi làm việc: hiểu biết, chính sách và vai trò của phúc lợi doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 
7. Bùi Thế Cường. 2003. Nỗ lực tập thể và phong trào xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa: Một khởi thảo nghiên cứu. Tạp chí Xã hội học. Số 1/2003. 
8. Chamberlayne, Prue, Joanna Bornat, and Tom Wengraf (editor). 2000. The Turn to Biographical Methods in Social Sciences. Comparative issues and examples. London: Routledge.
9. Collins, Randall. 1994. Four Sociological Traditions. New York and Oxford: Oxford University Press.
10. Crotty, Michael. 1998. The Foundations of Social Research. Meaning and perspective in the research process. London: SAGE Publications.
11. Giddens, Anthony. 1984. The Constitution of Society. Outline of the Theory of  Structuration. Cambridge: Polity Press.
12. Korte, Hermann and Bernhard Schaefers (editor). 1995. Einfuerung in Hauptbegriffe der Soziologie. 3rd ed. Opladen: Leske + Budrich.
13. Marshall, Gordon. 1998. Oxford Dictionary of Sociology. Second edition. Oxford/New York: Oxford University Press.
14. Marx, Carl. 1961. Đấu tranh giai cấp ở Pháp. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật.
15. Marx, Carl và Friedrich Engels. 1976. Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật.
16. Marx, Carl, Friedrich Engels, và Vladimir I. Lenin. 1963. Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự Thật.
17. McQuarie, Donald (editor). 1995. Readings in Contemporary Sociological Theory. From Modernity to Post-Modernity. New Jersey: Prentice-Hall.
18. Nguyễn Xuân Nghĩa. 2002. Xã hội học. Thành phố Hồ Chí Minh: Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Parker, Noel and Stuart Sim (editors). 1997. The A-Z Guide to Modern Social and Political heorists. Hemel Hempstead Hertfordshire: Prentice Hall/Harvester Wheatsheaf.
20. Passeron, Jean-Claude. 2002. Lý luận xã hội học. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
21. Turner, Bryan S. 1999. Classical Sociology. London, Thousand Oaks and New Delhi: SAGE Publications Ltd. 
22. Turner, Jonathan H. 1998. The Structure of Sociological Theory. 6th ed. Belmont, CA: Wadsworth Publishing Company. 
23. Wallace, Ruth A. and Alson Wolf. 1998. Contemporary Sociological Theory. Expanding the Classical Tradition. Fifth edition. Upper Saddle River (New Jersey): Prentice-Hall, Inc. 

------
Bùi Thế Cường. Các lý thuyết về hành động xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM) Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Số 6(94)/2006. Trang 57-71. 

No comments:

Post a Comment