Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2017). Lao động
xuyên biên giới của một số tộc người ở vùng biên khu vực Đông Bắc. Viện Dân tộc học. Những vấn đề
cơ bản, cấp bách về dân tộc, tộc người ở nước ta hiện nay: Lý luận và thực tiễn
(Kỷ yếu Hội nghị khoa học quốc gia năm 2016). Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 445-454.
1. Giới thiệu
Lao động xuyên biên giới được xem là một chiến lược sống để
đối phó với tình trạng thiếu việc làm và thể hiện nhu cầu nâng cao thu nhập của
hộ gia đình ở khu vực giáp biên. Một số nghiên cứu cho rằng, việc qua lại biên
giới quốc gia trong hoạt động kinh tế giữa các dân tộc đã diễn ra rất lâu đời
và vẫn được duy trì, thậm chí được tăng cường hơn trong giai đoạn hiện nay (Lý Hành Sơn, 2014). Làm thuê bên kia biên giới
là hoạt động thường thấy ở các dân tộc thiểu số tại vùng biên của nước ta và
diễn ra mạnh mẽ nhất là ở vùng biên giới Việt – Trung. Người dân tộc thiểu số ở
vùng biên đã đi sâu vào nội địa Trung Quốc từ vài chục đến vài trăm km để làm
thuê cho đồng tộc hoặc khác tộc với những công việc thường liên quan đến canh
tác nông nghiệp hay khai phá ruộng nương (Vương Xuân Tình, 2010). Có sự sôi động trong lao
động làm thuê xuyên biên giới ở tỉnh Lạng Sơn. Nhiều cư dân Tày, Nùng ở một số
khu vực của tỉnh này đã vào nội địa Trung Quốc làm thuê với công việc chính là
lao động nông nghiệp. Thời điểm đi lao động nhiều nhất là vào những tháng cuối
năm, lúc gặt hái xong. Khi đi, họ chỉ sử dụng giấy thông hành với tính chất như
đi thăm thân hay đi chợ. Nếu họ chưa biết nơi làm thì qua cửa khẩu sẽ có người
Trung Quốc tới đón (Bùi Xuân Đính, 2010).
Lao động
xuyên biên giới là một đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất của sự
phát triển không đồng đều giữa hai vùng lãnh thổ cạnh đường giáp biên. Những
khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế giữa hai vùng biên giới của hai
quốc gia là nguyên nhân cơ bản tạo nên dòng lao động đặc thù này. Nguyên nhân sâu
xa của tình trạng làm thuê xuyên biên giới của người dân Việt Nam là do vùng
biên giới của Trung Quốc được chú trọng, ưu tiên với chính sách “hưng biên phú
dân” nên có bước phát triển mạnh về kinh tế, cần nguồn lao động lớn trong khi
lực lượng lao động tại chỗ của họ lại không đủ. Đối với các tộc người thiểu số
ở biên giới Việt Nam, sang bên Trung Quốc làm thuê được ưu tiên lựa chọn hơn
nơi khác bởi vì thu nhập cao hơn; địa bàn gần hơn và thành phần dân tộc, ngôn
ngữ tập quán tương đồng với nhau; làm các công việc quen thuộc và sống ở vùng
nông thôn phù hợp với cuộc của họ như ở quê nhà (Bùi Xuân Đính, 2010).
Nghiên cứu
thực trạng lao động xuyên biên giới của một số tộc người ở khu vực biên giới
Đông Bắc là vấn đề rất đáng quan tâm bởi vì chủ đề này không chỉ phản ánh thực
tế tình trạng lao động, việc làm mà còn cung cấp những thông tin quan trọng về
đa dạng hóa nghề nghiệp, biến động nhân khẩu học, di cư và cả vấn đề không ổn
định liên quan đến sử dụng đất đai ở khu vực biên giới. Mục đích của
nghiên cứu này nhằm xem xét thực trạng người dân ở khu vực biên giới Đông Bắc sang
bên kia biên giới lao động trong mối liên hệ với một số yếu tố đặc trưng của cá
nhân và hộ gia đình như thế nào. Trước hết, nghiên cứu trình bày thực trạng lao
động xuyên biên giới theo các đặc điểm cụ thể của cá nhân và hộ gia đình. Sau
đó, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến để đánh giá xem những đặc điểm
này có mối liên hệ hoặc ảnh hưởng như thế nào đối với khả năng sang biên kia
biên giới lao động của người dân.
2. Số liệu
Nghiên cứu được
dựa trên kết quả khảo sát năm 2014-2015 của đề tài cấp nhà nước: “Hôn nhân
xuyên biên giới với phát triển xã hội của các tỉnh miền núi nước ta trong phát
triển bền vững” (KX 02.21/11-15). Đề tài đã tiến hành khảo sát ở các xã
khu vực biên giới Đông Bắc của 4 tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà
Giang. Nghiên cứu tiến hành phân tích dựa trên số lượng mẫu là 3.701 người
trong độ tuổi từ 15 trở lên của 1.068 hộ gia đình được khảo sát.
3. Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề
lao động xuyên biên giới
Thông tin thu thập được từ thực địa
các xã được lựa chọn khảo sát dọc biên giới Đông Bắc cho thấy, những công việc mà người dân ở khu vực biên giới
sang làm ở bên kia biên giới rất đa dạng nhưng không kém phần nặng nhọc và độc
hại như bốc vác, vận chuyển hàng hoá, xây dựng, làm việc tại các trang trại
trồng cây lương thực, cây ăn quả, làm việc trong các xưởng thủ công, hầm mỏ… Thời
gian đi lao động của người dân cũng rất phong phú với nhiều hình thức như có
thể sáng đi tối về; đi định kỳ theo tuần, tháng, năm hoặc làm ăn theo mùa vụ. Hình
thức đi lao động của người dân chủ yếu là xuất nhập cảnh trái phép qua đường
mòn, sông suối, lối mở. Lý do người dân đi lao động thường không có giấy thông
hành hay hộ chiếu là vì xuất nhập cảnh hợp pháp qua các cửa khẩu sẽ không đảm
bảo thời gian làm thuê, không được chủ Trung Quốc chấp nhận và giao việc làm.
Có thể nói, lao
động xuyên biên giới là một trong những cách thức mà những hộ gia đình ở khu
vực biên giới Đông Bắc cố gắng tổ chức lại nguồn lao động của họ hoặc nhằm đa
dạng hóa nguồn thu nhập. Bởi vì, phương thức lao động sản xuất của người dân ở
khu vực biên giới còn đơn giản, manh mún, chủ yếu làm theo thời vụ dẫn tới
thiếu việc làm, dư thừa sức lao động trong giai đoạn nông nhàn, trong khi đó
ngày công lao động của cùng một công việc khi đi làm ở Trung Quốc được trả cao
hơn. Thông qua hình thức lao động làm thuê bên kia biên giới, các thành viên có
thể tích lũy và đóng góp thu nhập của mình cho hộ gia đình. Qua đó cho thấy,
lượng tiền mặt mà người tham gia lao động xuyên biên giới mang về không phải là
sản phẩm ngẫu nhiên mà là một phần không thể tách rời trong chiến lược sống của
cá nhân và hộ gia đình ở khu vực biên giới Đông Bắc.
Tuy nhiên,
bên cạnh những yếu tố tích cực thì vẫn có những hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến
người dân như một bộ phận phải làm việc trong điều kiện không đảm bảo, thậm chí
là hết sức tồi tệ. Để đổi lấy
những đồng tiền công tương đương 200.000-300.000đ/ ngày, người dân phải làm việc cật lực mỗi
ngày phải trên 10 giờ và
phải ở các lán trại tạm bợ tại bìa rừng hoặc công xưởng với sự quản lý
chặt chẽ, không được đi lại, bị giữ giấy tờ tùy thân và tiền công. Việc nhận tiền công lao động không phải lúc nào cũng suôn sẻ, nhiều người bị chủ quỵt hoặc trừ bớt với nhiều lý do. Nhiều
người bị trục xuất về nước do không có đủ giấy tờ hợp pháp làm ảnh hưởng đến
công tác quản lý dân cư, an ninh trật tự trên địa bàn. Đặc biệt có trường hợp
bị tử vong gây thiệt hại cho bản thân người lao động và gia đình... Thực trạng này
đang đặt ra yêu cầu trong công tác quản lý xã hội ở khu vực biên giới Đông Bắc
là cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm quản lý, đưa người dân sang Trung Quốc
làm việc và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ.
Phân tích số
liệu khảo sát cho thấy, trong
số 3.701 thành viên hộ gia đình ở độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên tại 16 xã được nghiên cứu ở khu vực biên giới Đông Bắc, có
12,3% đã và đang rời địa phương sang Trung Quốc lao động trong vòng 1 năm trước
cuộc khảo sát. Trong số những người tham gia lao động xuyên biên giới, người có
độ tuổi thấp nhất là 15 và lớn nhất là 70 tuổi. Biểu đồ 1 trình bày phân tích hai biến về mối quan
hệ giữa các biến số độc lập và tỷ lệ lao động bên kia biên giới của các thành
viên trong hộ gia đình. Xét theo giới tính, kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ đã
và đang lao động xuyên biên giới trong vòng 1 năm trước cuộc khảo sát của nam
giới cao gấp đôi so với phụ nữ, 16,3% so với 8,3%. Có sự khác biệt khá lớn về
tỷ lệ tham gia lao động biên kia biên giới giữa người Kinh và người dân tộc
thiểu số (3,2% so với 13,7%).
Biểu đồ 1. Tỷ lệ lao động
xuyên biên giới chia theo một số đặc trưng
Đối với điều kiện sống của hộ gia đình, mối quan hệ giữa yếu tố này với
tỷ lệ tham gia lao động bên kia biên giới của người dân mang tính chất hình
sin. Theo đó, tỷ lệ lao động xuyên biên giới của nhóm có điều kiện sống nghèo
nhất chiếm 14%. Tỷ lệ này giảm xuống 13,1% ở nhóm nghèo và tăng lên 17% sau đó
lại giảm xuống còn ở mức 5,3% ở nhóm có điều kiện sống khá nhất.
Phân
tích đa biến
Bảng 1 trình bày kết quả ước lượng bằng mô hình hồi quy logistic nhằm tìm hiểu
xác suất sang bên kia biên giới làm việc của các thành viên từ 15
tuổi trở lên của các hộ gia
đình được khảo sát. Các yếu tố tiềm năng có thể ảnh hưởng đến xác suất lao động
xuyên biên giới được thể hiện ở cột thứ nhất. Cột thứ hai của bảng thể hiện các
hệ số hồi quy (Odds Ratio)
thu được thông qua quá trình tính toán. Hệ số hồi quy được dùng để so sánh về xác
suất lao động xuyên biên giới giữa nhóm nghiên cứu với nhóm được dùng làm tham
khảo của mỗi yếu tố trong điều kiện tính đến sự ảnh hưởng của các yếu tố khác
có trong mô hình. Các mức ý nghĩa thống kê (P> | z |) được xem xét là 95%,
99% và 99,9% độ tin cậy. Hai cột cuối cùng của bảng thể hiện giá trị cận trên
và cận dưới của khoảng tin cậy 95%.
Bảng 1. Mô hình hồi quy đa biến về tác động của các
yếu tố đối với xác suất tham gia lao động xuyên biên giới (thủ tục logistic)
|
||||||
Các
yếu tố
|
Odds Ratio
|
Std.
Err.
|
z
|
P> | z |
|
|
|
Giới tính (Nữ
= 1)
|
0,47
|
0,05
|
-6,94
|
0,000
|
0,381
|
0,583
|
Dân tộc
Kinh (có = 1)
|
0,36
|
0,1
|
-3,78
|
0,000
|
0,208
|
0,608
|
Tuổi (tính
theo năm)
|
0,97
|
0
|
-8,2
|
0,000
|
0,958
|
0,974
|
Học vấn
(tính theo lớp)
|
0,95
|
0,01
|
-3,95
|
0,000
|
0,92
|
0,972
|
Mức sống
gia đình
|
|
|
|
|
|
|
Nghèo nhất (nhóm s/sánh)
|
1
|
|
|
|
|
|
Nghèo
|
0,93
|
0,17
|
-0,38
|
0,701
|
0,652
|
1,334
|
Trung
bình
|
1,42
|
0,24
|
2,1
|
0,036
|
1,024
|
1,981
|
Khá
|
1,12
|
0,19
|
0,64
|
0,524
|
0,795
|
1,569
|
Khá
nhất
|
0,59
|
0,13
|
-2,46
|
0,014
|
0,383
|
0,897
|
Khó khăn
(Thiếu đất = 1)
|
1,24
|
0,13
|
1,99
|
0,046
|
1,004
|
1,526
|
Number
of obs = 3.701.
|
Theo kết quả phân
tích ở bảng 1, ước lượng xác suất về khả năng làm việc bên kia biên giới của nữ
giới chỉ bằng 0,47 lần so với nam giới. Nói cách khác, nữ giới có khả năng lao
động xuyên biên giới thấp hơn nam giới 53% khi tính đến tác động đồng thời của
những biến số độc lập khác có trong mô hình và sự khác biệt này rất có ý nghĩa
thống kê (Odds Ratio = 0,47; P> | z | = 0,000). Điều này cho thấy vai trò giới đã tác động
đến việc thể hiện và thực thi vai trò trụ cột gia đình của nam giới bằng cách
phải sang bên kia biên giới lao động để tìm kiếm thêm thu nhập mặc dù phải rời
xa gia đình và cộng đồng.
Tác động của biến
số ‘dân tộc Kinh’ đến xác suất lao động xuyên biên giới của các thành viên hộ
gia đình rất có ý nghĩa thống kê. Nó chỉ ra khả năng sang bên kia biên giới lao động giữa người Kinh và
người dân tộc thiểu số có sự khác biệt rất rõ ràng. Khi kiểm soát tác động của
các biến số độc lập khác có trong mô hình, xác suất lao động xuyên biên giới
của người Kinh thấp hơn 64% so với người dân tộc thiểu số.
Kết quả phân
tích cho thấy biến số tuổi có ảnh hưởng đến khả năng lao động bên kia biên giới
của các thành viên hộ gia đình theo tính chất nghịch biến và mối quan hệ này
rất có ý nghĩa thống kê (Odds
Ratio = 0,97; P> | z | = 0,000). Nghĩa là, xác suất lao động xuyên biên giới của cá nhân giảm đi
khi tuổi của họ tăng lên. Tương tự, học vấn cũng có ảnh hưởng đến khả năng lao
động xuyên biên giới của các thành viên hộ gia đình theo xu hướng nghịch biến.
Khi một cá nhân có thêm 1 lớp đi học thì xác suất sang bên kia biên giới làm
việc của họ giảm xuống 5% và sự ảnh hưởng này rất có ý nghĩa thống kê (Odds Ratio = 0,95; P> | z | = 0,000). Điều này gợi ý rằng có thể giáo dục
đóng vai trò nhất định để giúp cá nhân có một việc làm ổn định trong nước mà
không phải đi làm thuê bên kia biên giới.
Tương tự như phân tích hai biến ban đầu, ảnh hưởng của yếu tố
điều kiện sống hộ gia đình với khả năng lao động xuyên biên giới của các cá
nhân vẫn mang tính chất hình sin trong mô hình phân tích hồi quy đa biến. So
với nhóm nghèo nhất, khả năng lao động xuyên biên giới của cá nhân ở hộ gia
đình có điều kiện sống trung bình cao hơn 1,4 lần. Tuy nhiên, xác suất này giảm
xuống đối với những người mà hộ gia đình của họ có điều kiện sống khá và khá
giả nhất. Nếu như hộ gia đình có điều kiện sống khá giả nhất thì xác suất lao
động xuyên biên giới của thành viên chỉ bằng 0,59 so với những người có mức
sống nghèo nhất. Có thể nhận thấy rằng, những đặc trưng như neo đơn, ít nguồn
lực có thể phần nào hạn chế khả năng lao động xuyên biên giới đối với những hộ
gia đình nghèo nhất so với những hộ gia đình có mức sống trung bình và khá.
Ngược lại, những hộ gia đình khá giả nhất có thể đảm bảo được khả năng tài
chính cũng như việc làm cho nên các thành viên của hộ không nhất thiết phải
sang bên kia biên giới để làm thuê.
Khi tính đến tác động của các biến số khác có trong mô hình phân
tích, kết quả cho thấy, những hộ gia đình nào mà người đại diện cho rằng hiện
đang gặp khó khăn về thiếu đất sản xuất có ảnh hưởng đến khả năng lao động
xuyên biên giới của các thành viên. So với những cá nhân của hộ không gặp khó
khăn về thiếu đất sản xuất, xác suất sang bên kia biên giới để làm thuê đối với
các thành viên của hộ thiếu đất cao hơn 1,24 lần. Thực tế này phản ánh rằng, hoạt
động sản xuất của người dân chủ yếu làm theo thời vụ dẫn đến thiếu việc làm, dư
thừa sức lao động, vì thế khi hộ gia đình thiếu đất sản xuất cũng chính là động
lực thúc đẩy các thành viên sang bên kia biên giới lao động tìm kiếm thu nhập.
4. Kết luận và Thảo luận
Đi lao động làm thuê bên kia biên giới là một thực tế đối với
một số tộc người cư trú ở khu vực biên giới Đông Bắc Việt Nam . Có thể
nói, lao động xuyên biên giới là sự phản ánh hệ quả tất yếu của tình trạng
thiếu việc làm và là nhu cầu nâng cao thu nhập của người dân ở khu vực biên
giới Đông Bắc. Cùng với đó là
do địa hình giữa Việt Nam và
Trung Quốc có nhiều đường mòn hoặc lối mở, cư dân sinh sống hai bên biên giới có khoảng cách địa lý gần nhau và có thể qua lại dễ dàng. Trong bối cảnh
hiện tại, với sự tác động của kinh tế thị trường, giao thông cũng như thông
tin, tình trạng người dân sang bên kia biên giới lao động tìm kiếm thu nhập
càng có cơ hội gia tăng.
Với những thành
quả đã đạt được về kinh tế-xã hội, khu vực biên giới Đông Bắc đang trên đường
thoát khỏi nghèo đói nhưng đồng thời những khác biệt giữa các nhóm xã hội, vùng
miền sẽ tiếp tục gia tăng. Kết quả phân tích cho thấy, trong số những thành
viên hộ gia đình từ 15 tuổi trở lên, nhóm đối tượng có khả năng sang bên kia
biên giới làm thuê tự do nhiều hơn ở nam giới và tập trung chủ yếu vào những
đoàn hệ trẻ hơn, trong đó có một số trẻ em dưới 18 tuổi. Những người dân tộc kinh và có học
vấn cao hơn có khả năng không phải sang lao động ở bên kia biên giới so với
người dân tộc thiểu số và người có học vấn thấp hơn. Thành viên ở hộ gia đình
có mức sống khá nhất và tự đánh giá là không thiếu đất sản xuất có khả năng đi
lao động bên kia biên giới thấp hơn so với những hộ gia đình có mức sống thấp
hơn và tự đánh giá là thiếu đất sản xuất.
Những kết
quả phân tích trong bài viết cùng với những thông tin thu được từ thực địa gợi
ý sâu xa hơn rằng mặc dù phụ nữ có xác suất thấp hơn nam giới trong lĩnh vực
lao động xuyên biên giới nhưng vấn đề đặt ra cần quan tâm là phụ nữ đi làm thuê
bên kia biên giới có thể trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người, bóc lột,
phải làm việc trong những điều kiện như nô lệ và cuối cùng có thể là nạn nhân
của tình trạng xâm hại tình dục. Do đó, việc cung cấp thông tin và tuyên truyền
cho những đối tượng sang bên kia biên giới lao động nói chung và phụ nữ nói
riêng về các nguy cơ và cách phòng ngừa, đối phó với những tình huống xâm hại là
rất cần thiết. Mỗi gia đình nên cân nhắc, lựa chọn giữa lợi ích trước mắt và
lâu dài để có kế hoạch tập trung cho lao động sản xuất, phát triển kinh tế hộ
gia đình chính đáng ngay trên quê hương của mình, tránh đi lao động trái phép ở
bên kia biên giới để chịu những rủi ro đáng tiếc.
Theo nguyên
tắc quản lý đường biên giới và an ninh quốc gia, người dân của hai bên biên
giới khi đi sang lãnh thổ của nước khác đều phải đăng ký họ tên, nơi đến, thời
gian ở lại với đồn biên phòng cửa khẩu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề này lại
gây cản trở trong việc tìm kiếm thêm thu nhập ở bên kia biên giới cho nên rất
nhiều trường hợp, người dân thường đi thẳng qua đường mòn, lối mở dân sinh mà
không khai báo với lực lượng an ninh biên phòng. Việc người dân ở khu vực biên
giới khi sang bên kia biên giới lao động tự do không có giấy tờ hợp pháp, không
được ký hợp đồng lao động thường dẫn đến không có cơ sở pháp lý để đấu tranh
quyền lợi nếu xảy ra những tranh chấp, tai nạn về lao động. Bài học nhận thấy ở
đây trong công tác quản lý xã hội ở khu vực biên giới là chính quyền địa phương
cần tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhân khẩu, nắm bắt tình hình người dân
đi làm việc bên kia biên giới; hướng dẫn cụ thể cho người dân đăng ký và chuẩn
bị các giấy tờ khi sang Trung Quốc làm việc theo đúng quy định (giấy thông hành,
hộ chiếu... ). Tích cực tuyên truyền, giải thích chính sách, pháp luật của Nhà
nước về quản lý đường biên cũng như giúp người dân nhận thức được việc xuất
cảnh trái phép sang Trung Quốc lao động là vi phạm pháp luật, sẽ bị xử lý
theo pháp luật của chính
quyền nước sở tại khi bị phát hiện.
Để có thể
cải thiện điều kiện sống của mình, một số tộc người ở khu vực biên giới Đông
Bắc vẫn tiếp tục lựa chọn hình thức lao động bên kia biên giới và dù cho những
khó khăn trở ngại đến mức nào cũng không đủ để làm chùn bước chân của họ. Vì
thế, cách thức hạn chế làn sóng người dân ở các địa bàn khu vực biên giới Đông
Bắc đi lao động làm thuê ở Trung Quốc trái phép phải được tiến hành bằng việc đẩy
mạnh thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo, ứng dụng các mô hình hoạt động kinh tế vừa và nhỏ, tạo điều kiện
công ăn việc làm mang tính ổn định, bền vững và có thu nhập chính đáng./.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Xuân Đính (2010). Một số vấn đề về quan hệ dân tộc liên biên
giới ở vùng Đông Bắc hiện nay. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí
Minh (Chủ biên). Quan hệ tộc người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lý Hành Sơn (2014).
Quan hệ dân tộc xuyên biên giới trong hoạt động kinh tế ở một số tộc người vùng
miền núi phía Bắc. Tạp chí Dân tộc học,
(số 4), tr. 25-37.
3. Vương Xuân Tình
(2010). Một số vấn đề cơ bản về dân tộc
dưới tác động của sự phát triển vùng biên giới Việt - Trung (Nghiên cứu về
người Hà Nhì ở một làng của tỉnh Lào Cai, Việt Nam và một làng thuộc châu Hồng
Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc). Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
Viện Dân tộc học, Hà Nội.
No comments:
Post a Comment