Monday, December 16, 2019

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em Việt Nam

Trần Quý Long1


Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2018). Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6, tr. 32-38.

    
Viện nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: tranquylong@gmail.com
Nhận ngày 01 tháng 01 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 6 tháng 4 năm 2018.


Tóm tắt: Việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em (việc trẻ em được đi học ở bậc trung học ở Việt Nam) không chỉ phụ thuộc vào các chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Trẻ em thuộc gia đình có mức sống thấp, dân tộc thiểu số, sống ở nông thôn, vùng sâu vùng xa gặp nhiều bất lợi hơn trong tiếp cận giáo dục trung học so với những trẻ em khác. Một yếu tố có ảnh hưởng rõ nét đến khả năng tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em là mức sống gia đình. Nếu các chính sách về giáo dục không hướng đến nhóm người nghèo và thiệt thòi thì nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục trung học.


Từ khóa: Tiếp cận giáo dục, trung học, trẻ em.
Phân loại ngành: Xã hội học
Abstract: The access to secondary education of Vietnamese children depends not only on the policies of the Party and State but also on many other factors. Children from families with low living standards, those of ethnic minorities, and those living in rural and remote areas face more difficulties in accessing secondary education than other children. A factor that has a significant impact on a child's access to secondary education is the family’s living standard. If the education policy fails to target the poor and the disadvantaged, children living in difficult conditions will find it tough to access secondary education.
Keywords: Access to education, secondary education, education policy.
Subject classification: Sociology


1. Giới thiệu
Giáo dục là một yếu tố cơ bản để xây dựng nên vốn nhân lực, đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Giáo dục đối với cá nhân, thậm chí được thừa nhận như là một quyền con người. Công ước quốc tề về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc tại Điều 28 đã khẳng định rằng, quyền được học tập là một quyền cơ bản. Giáo dục là nền tảng để phát triển các kỹ năng tham gia vào các hoạt động kinh tế có hàm lượng chất xám cao. Những người không có điều kiện tiếp cận giáo dục trung học dễ bị loại khỏi những cơ hội mới (Ngân hàng Thế giới, 2001). Trẻ em cần phải học hết lớp cuối cùng của bậc trung học phổ thông để được trang bị nhiều kiến thức và kỹ năng thiết yếu (UNDP, 2011). Đầu tư cho giáo dục trong thời kỳ thanh thiếu niên là rất cần thiết để tận dụng những thành quả của đầu tư giáo dục thời kỳ thơ ấu (Ngân hàng Thế giới, 2007). Học vấn cao sẽ giúp cho trẻ em chuyển tiếp sang giai đoạn đi làm được thuận lợi hơn và đạt được nhiều thành công hơn trong cuộc sống (Trần Quý Long, 2013). Bài viết này phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em Việt Nam. Các yếu tố đó là: điều kiện cư trú, gia đình và đặc trưng cá nhân…


2. Điều kiện cư trú
Khả năng được tiếp cận giáo dục của trẻ em phụ thuộc vào việc nơi cư trú của gia đình ở nông thôn hay thành thị. Cấp học càng cao thì sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị về tỷ lệ nhập học đúng tuổi càng lớn (Tổng cục Thống kê, 2011). Thanh, thiếu niên cư trú ở khu vực nông thôn có khoảng thời gian đi học ngắn hơn so với thanh, thiếu niên ở khu vực thành thị. Nhiều thanh, thiếu niên ở nông thôn không thể hoàn thành chương trình giáo dục do các khó khăn về kinh tế và nhu cầu phải lao động để hỗ trợ gia đình (Trần Quý Long, 2013). Thành thị là khu vực có không khí học tập luôn được đề cao. Nhóm trẻ em ở các đô thị có những điều kiện tốt hơn, thuận lợi hơn so với nhóm trẻ em nông thôn để phát triển và hội nhập với đời sống và lối sống hiện đại. Họ có tính độc lập cao hơn, năng động hơn để “lập thân, lập nghiệp” (Trịnh Duy Luân, 2006). Ở thành thị có nhiều cơ sở giáo dục từ công lập đến tư nhân với trang thiết bị và cơ sở vật chất được đầu tư tốt hơn. Số lượng và chất lượng dịch vụ giáo dục là một yếu tố quan trọng của những mức độ khác nhau về tiếp cận giáo dục của trẻ em. Trình độ giáo viên, các cơ sở giáo dục ở thành thị cũng tốt hơn. Khu vực thành thị cũng có nhiều cơ hội tốt hơn về nguồn thu nhập mới và thu nhập thêm, có lối sống, hôn nhân và triển vọng xã hội hấp dẫn hơn đối với giáo viên. Điều đó thu hút giáo viên có trình độ cao về thành thị (Indu Bhushan và cộng sự, 2001).
Sự khác biệt giữa các vùng trong tỷ lệ nhập học được quan sát thấy rõ rệt nhất ở các cấp học cao hơn. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, nếu như ở cấp tiểu học, khoảng cách lớn nhất chỉ là 6 điểm phần trăm giữa đồng bằng sông Hồng và trung du và miền núi phía Bắc trong tỷ lệ nhập học đúng tuổi, thì ở cấp trung học cơ sởđồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ nhập học đúng tuổi là 71,5%, trong khi tỷ lệ này ở đồng bằng sông Hồng là 93,9% (chênh lệch lên tới 22,4 điểm phần trăm). Đối với cấp trung học phổ thông, chênh lệch là 34,4% giữa đồng bằng sông Hồng (74,9%) và đồng bằng sông Cửu Long (40,4%) (Tổng cục Thống kê, 2011). Kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2014 mới đây cho thấy, tỷ lệ đi học trung học phổ thông đúng tuổi của trẻ em ở đồng bằng sông Cửu Long là thấp nhất (48,1%), tiếp theo là Tây Nguyên (51,4%), Trung du và miền núi phía Bắc (55,9%). Ngược lại, đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ trẻ em đi học trung học phổ thông đúng tuổi cao nhất (82,2%) (Tổng cục Thống kê, 2015).
Lý giải về sự khác biệt giữa các vùng trong tiếp cận giáo dục của trẻ em, một nghiên cứu đã nhận định rằng, những vùng có thái độ kỷ luật tốt đối với giáo dục (đặc biệt là đồng bằng sông Hồng) là những vùng đã đạt những thành công trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung đi lên xã hội chủ nghĩa. Ở đó các tư tưởng tập thể và các giá trị của giáo dục đi vào nội tâm ở mức tối đa, thái độ tốt với học đường là những nét đặc trưng. Cao nguyên miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long là những vùng có nền nếp học đường kém hơn cả. Mức độ thấp kém, sa sút về giáo dục cũng đã ăn sâu vào những vùng này từ lâu (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin, 2001b). Bên cạnh đó, các nghiên cứu từ trước đến nay đều cho thấy, có sự khác nhau rất lớn về chất lượng giáo dục trên các vùng của cả nước. Nói chung, chất lượng giáo dục thấp ở những vùng khó khăn làm giảm động lực thúc đẩy người dân sử dụng dịch vụ giáo dục (Indu Bhushan và cộng sự, 2001). Những bất lợi do khác biệt vùng lại tăng thêm do một loạt các trở ngại về địa thế xa xôi, giao thông không thuận tiện và thời tiết khắc nghiệt. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, phương tiện đi lại chủ yếu là đường thủy, đi lại bằng phương tiện đó thường tốn kém hơn rất nhiều so với đi lại bằng đường bộ. Vào mùa mưa, việc đi học là cực kỳ khó khăn và đôi khi không thực hiện được (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002). Báo cáo quốc gia về Phát triển con người năm 2011 đưa ra nhận xét rằng, người dân ở vùng sâu, vùng xa thường gặp khó khăn nhiều hơn khi tiếp cận giáo dục và chất lượng giáo dục cũng không như ở khu vực thành thị. Với sự phân bố của hệ thống các cơ sở giáo dục hiện nay, giáo dục tiểu học, trung học cơ sở xuất hiện ở hầu hết khu vực đô thị và nông thôn, nhưng giáo dục trung học phổ thông thì tập trung nhiều hơn ở khu vực đô thị (UNDP, 2011)Tác động đến khả năng đi học của trẻ em không chỉ có các điều kiện địa lý - tự nhiên, mà còn có điều kiện kinh tế, xã hội, hệ thống giáo dục và thái độ đối với việc đi học của trẻ em. Có thể thấy, trong những mức độ khác nhau theo vùng tiếp cận giáo dục của trẻ em là biểu hiện rõ nét những mức độ khác nhau về mặt xã hội (Trần Quý Long, 2016).
3. Gia đình
3.1. Thành phần dân tộc
Trẻ em dân tộc thiểu số ở Việt Nam được hưởng lợi nhiều hơn từ các chương trình, chính sách giáo dục của quốc gia, nhưng lại có ít khả năng tiếp cận các chương trình này nhất. Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014, trẻ em ở các nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ đi học các cấp luôn thấp hơn trẻ em người Kinh. Nếu như tỷ lệ trẻ em người Kinh đi học đúng tuổi ở bậc trung học phổ thông là 69% thì tỷ lệ này của trẻ em ở các dân tộc Thái, Tày, Khmer, Dao, Mông lần lượt là 66,3%, 32,8%, 24,1%, 19,5%, 18,3% (Trần Quý Long, 2016)Kết quả phân tích đa biến từ số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy, sau khi tính đến sự ảnh hưởng của các biến số độc lập khác có trong mô hình, khả năng đi học của trẻ em ở nhóm dân tộc thiểu số thấp hơn gần một nửa so với trẻ em nhóm dân tộc Kinh (Trần Quý Long, 2014). Điều này cho thấy, dân tộc thiểu số vẫn là một nhóm xã hội chịu nhiều thiệt thòi và rất cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt chính sách trong lĩnh vực giáo dục.
Một số nghiên cứu khác nhận xét, tỷ lệ đi học của trẻ em dân tộc thiểu số thấp hơn trẻ em dân tộc Kinh là do nghèo đói, cơ sở vật chất nhà trường thiếu thốnchất lượng dạy học thấp. Tỷ lệ nhập học của trẻ em dân tộc thiểu số đặc biệt nhạy cảm với yếu tố không ổn định trước mắt. Những gia đình nghèo phải nỗ lực rất lớn để có đủ tiền thanh toán các khoản chi phí học tập “trước mắt”, ở bậc trung học phổ thông học phí và các chi phí sẽ cao hơn rất nhiều (Ngân hàng Thế giới và Các cơ quan khác, 2011). Mặc dù các cấp chính quyền đã có nhiều cố gắng để hòa nhập các nhóm dân tộc thiểu số vào xu thế chung, kể cả việc miễn học phí cũng như lập các trường nội trú, nhưng việc đi học của nhóm xã hội này vẫn ở mức thấp và tình trạng mù chữ vẫn còn ở mức cao. Mối quan tâm gìn giữ phương thức sản xuất và các định hướng văn hóa đã duy trì thái độ né tránh việc đi học của các nhóm dân tộc thiểu số (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin, 2001b)Theo một tác giả khác, hầu hết dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng nông thôn tương đối sâu và xa, rất ít người tìm được việc làm trong các ngành công nghiệp và ở vùng đô thị và rất nhiều bậc phụ huynh không thấy được giá trị của giáo dục trên mức biết đọc và biết viết, nếu con cái của họ chỉ là để theo họ tham gia vào những công việc đồng áng để đủ sống về cơ bản (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin, 2001a). Ngoài ra, những rào cản khác mang tính chất đặc trưng đối với học sinh người dân tộc thiểu số là khó khăn trong việc hiểu ngôn ngữ giảng dạy, thiếu giáo viên người dân tộc thiểu số, , sách giáo khoa không phù hợp, khoảng cách đến trường xa, thiếu phương tiện giao thông, thái độ tiêu cực của cha mẹ và cộng đồng đối với việc học hành của con cái (ADB và các cơ quan khác, 2003; Bộ Giáo dục và Đào tạo, UNESCO, UNICEF, 2008; Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002).
3.2. Học vấn của bố mẹ
Một trong những yếu tố quan trọng của gia đình ảnh hưởng đến việc đi học của trẻ em là trình độ học vấn của của bố mẹ. Khi trình độ học vấn của bố mẹ cao hơn, trẻ em có xác suất đi học cao hơn (Nguyễn Đức Vinh, 2009; Võ Thanh Sơn và cộng sự, 2001). Gia đình có bố mẹ với học vấn từ lớp 10 trở lên thì trẻ em có khoảng thời gian đi học dài hơn so với nhóm có bố mẹ với trình độ học vấn khác (Trần Quý Long, 2013). Trong gia đình, học vấn của người bố có vai trò đặc biệt quan trọng, khi người bố có trình độ học vấn cao hơn, con cái họ có xác suất đến trường cao hơn. Khi tất cả các biến số độc lập được đồng thời kiểm soát trong mô hình, ảnh hưởng của học vấn người bố vẫn rõ nét đối với xác suất đi học của trẻ em trong độ tuổi học phổ thông. So với nhóm trẻ em có bố với học vấn từ tiểu học trở xuống, xác suất đi học của trẻ em ở nhóm có bố với học vấn trung học cơ sở và trung học phổ thông trở lên cao hơn (Trần Quý Long, 2014). Một nghiên cứu khác phân tích số liệu Khảo sát mức sống dân cư 2014 nhận xét, mối quan hệ giữa học vấn của người bố và tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em ở các cấp học là đồng biến, nghĩa là trẻ em ở nhóm học vấn của bố cao hơn có tỷ lệ đi học đúng tuổi cao hơn. Chỉ có 45,6% trẻ em có bố với học vấn từ tiểu học trở xuống đi học đúng tuổi ở bậc trung học phổ thông. Tỷ lệ này tăng lên đạt 69,8% ở nhóm có bố với học vấn là trung học cơ sở và 85,3% ở nhóm có bố với học vấn từ trung học phổ thông trở lên (Trần Quý Long, 2017).
Một số nghiên cứu đã giải thích tác động của học vấn bố mẹ và khả năng đi học của con cái, theo đó, các bậc bố mẹ trong gia đình được hưởng sự giáo dục tốt thì có khả năng am hiểu tốt hơn về cách thức tận dụng các dịch vụ giáo dục. Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên của con cái, vì thế cha mẹ có học vấn cao hơn đóng một vai trò quan trọng trong việc định ra nhu cầu và tinh thần trách nhiệm tiếp cận giáo dục cho trẻ em, họ cũng có khả năng hơn trong việc đầu tư học hành cho con cái (Trần Quý Long, 2014).
3.3. Mức sống của gia đình
Mức sống hộ gia đình là một yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng được đi học của trẻ em rất rõ nét. Số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy, trẻ em trong những gia đình có mức sống cao hơn có tỷ lệ nhập học nhiều hơn (Tổng cục Thống kê, 2011). Sử dụng số liệu Điều tra thanh thiếu niên Việt Nam 2009 (SAVY2), một nghiên cứu nhận xét, mức sống và khoảng thời gian đi học của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ở gia đình có mức sống cao hơn, trẻ em có độ tuổi bỏ học cao hơn, tức là duy trì thời gian đi học lâu hơn. Điều đó cho thấy, việc tiếp cận và duy trì học vấn của trẻ em phụ thuộc nhiều hơn vào điều kiện kinh tế gia đình (Trần Quý Long, 2013). Mối quan hệ thuận chiều giữa điều kiện sống và xác suất đi học của trẻ em cũng được khẳng định qua phân tích kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009. Trẻ em trong gia đình có mức sống cao hơn thì xác suất đi học cao hơn (Trần Quý Long, 2014). Qua đó cho thấy, các hộ gia đình nghèo thường ít có khả năng tạo ra nguồn lực của chính mình, vì vậy lại làm giảm hơn nữa khả năng của gia đình trong việc đầu tư các nguồn lực thích hợp cho tiếp cận giáo dục của trẻ em. Phân tích kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014 cho kết quả tương tự, mức sống của hộ gia đình và tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em có mối quan hệ đồng biến ở cấp trung họcnghĩa là tỷ lệ đi học của trẻ em cao hơn ở những nhóm gia đình có mức sống cao hơn. Năm 2014, tỷ lệ nhập học đúng tuổi ở bậc trung học cơ sở là 71,4% ở nhóm ngũ phân vị nghèo nhất và 92,1% ở nhóm ngũ phân vị giàu nhất (chênh lệch giữa hai nhóm này là 20,7 điểm phần trăm)Đối với cấp trung học phổ thông, tỷ lệ chênh lệch là 34,4 điểm phần trăm (ngũ phân vị nghèo nhất là 41,2% và ngũ phân vị giàu nhất là 75,6%). Thực tế này cho thấy, giáo dục trung học rõ ràng trở thành phổ cập với những nhóm khá giả hơn vì gia đình có điều kiện sẽ đảm bảo cho trẻ em được đến trường hơn; ngược lại các gia đình nghèo hơn sẽ không thể duy trì việc đi học cho con cái khi bị lưu ban, hoặc phải cắt giảm việc học hành của trẻ em ở cấp học cao hơn. Vì thế, những nỗ lực tài chính cần thiết để trẻ em tiếp tục học trên bậc tiểu học là vấn đề đang đặt ra đối với gia đình có thu nhập thấp (Trần Quý Long, 2017).
Qua phân tích kết quả các số liệu khảo sát cho thấy, thách thức mà trẻ em nghèo phải vượt qua để được đi học vẫn lớn hơn những thách thức đối với trẻ em xuất thân từ những gia đình khá giả hơn. Những gia đình nghèo hơn không thể cho con cái đi học ngay từ đầu hoặc không thể duy trì việc đi học cho con cái khi bị lưu ban do vấn đề sức khỏe hay thành tích học tập, hoặc phải cắt giảm việc học hành của trẻ em ở cấp học cao hơn do vấn đề chi phí. Mặc dù Nhà nước đã thực hiện những chính sách nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho việc học hành của trẻ em nhưng các hộ gia đình vẫn phải đóng góp đáng kể các khoản chi phí cho giáo dục của con cái, do đó hạn chế khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em ở những hộ nghèo nhất. Một nghiên cứu cho rằng, những hoàn cảnh và mức sống khác nhau làm cho những bất bình đẳng về mặt xã hội tăng lên gấp bội. Việc tiếp tục theo học ở những bậc học cao hơn ngày càng không phụ thuộc vào chính kết quả học tập mà phụ thuộc ngày càng nhiều vào điều kiện tài chính của cha mẹ. Các cấp sau tiểu học là những cấp mang tính chất phân biệt về mặt xã hội nhiều nhất (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin, 2001b). Một trong những lý do của sự chênh lệch về tỷ lệ đi học của trẻ em ở những gia đình có điều kiện kinh tế khác nhau là chi phí cơ hội của việc cho trẻ em đến trường. Đối với rất nhiều hộ nghèo, sức lao động của trẻ em có giá trị hơn nhiều so với việc để chúng tới trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục không thể bù đắp được những tổn thất về thu nhập trong ngắn hạn (ADB và các cơ quan khác, 2003). Những bất lợi do nghèo lại tăng thêm do một loạt các trở ngại về địa lý xa xôi. Nhiều trẻ em phải vượt qua những quãng đường dài để đến trường ở khu vực miền núi, những gia đình khá giả có thể cho con học nội trú, còn phần lớn những gia đình nghèo thì không thể trang trải nổi chi phí cho việc học nội trú này (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002).
3.4. Quy mô hộ gia đình
Số thành viên hộ gia đình luôn có mối liên hệ nghịch biến với khả năng đi học của trẻ em, nghĩa là gia đình càng có nhiều thành viên thì tỷ lệ đi học của trẻ em càng giảm. Kết quả này hàm ý rằng, quy mô gia đình có khả năng ảnh hưởng đến việc duy trì học vấn của trẻ em thông qua ảnh hưởng của tình trạng đông người. Những hộ gia đình đông thành viên có nhu cầu cắt giảm chi phí học tập và huy động trẻ em tham gia làm việc nhằm tăng thêm thu nhập (Trần Quý Long, 2014). Một số phải hy sinh quyền lợi đến trường của mình cho những đứa trẻ khác ở những gia đình có nhiều con trong tuổi đến trường (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002).
4. Đặc trưng cá nhân
4.1. Giới tính
Giới tính có mối quan hệ với tỷ lệ đi học của trẻ em và các số liệu điều tra cấp quốc gia cho thấy, ở cấp học càng cao thì trẻ em gái có xu hướng tham gia học cao hơn trẻ em trai. Kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy, tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nam giới hầu như không cao hơn nữ giới ở tất cả các cấp, điều này cho thấy bất bình đẳng giới về tỷ lệ nhập học đúng tuổi tại Việt Nam gần như đã được xóa bỏ (Tổng cục Thống kê, 2011). Qua việc phân tích số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 bằng mô hình hồi quy đa biến, một nghiên cứu khẳng định trong cùng một điều kiện chịu tác động của nhiều yếu tố khác, trẻ em gái vẫn có xác suất đi học cao hơn trẻ em trai (Trần Quý Long, 2014). Trên cơ sở phân tích số liệu Điều tra quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ hai (SAVY 2) bằng mô hình hồi quy nguy cơ xác suất Cox (Cox Proportional Hazard Model), nghiên cứu của tác giả nhận xét, trẻ em trai có nguy cơ thôi học sớm hơn trẻ em gái; nói cách khác trẻ em gái có khoảng thời gian đi học dài hơn trẻ em trai (Trần Quý Long, 2013). Từ những kết quả đó có thể cho rằng, việc có nhiều cơ hội hoặc áp lực hơn liên quan đến việc đi làm có thể làm giảm khả năng nhập học và duy trì việc đi học của trẻ em trai. Ngoài ra, việc phổ cập giáo dục phổ thông và bình đẳng giới có mối quan hệ mật thiết với nhau ở chỗ, bất kỳ thành tựu nào của phổ cập giáo dục phổ thông cũng sẽ là một sự bảo đảm cho bình đẳng giới và bất kỳ nỗ lực nào nhằm đạt được bình đẳng giới cũng sẽ thúc đẩy nỗ lực đạt được phổ cập giáo dục phổ thông.
4.2. Tuổi
Tuổi của trẻ em là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng việc đi học và tiến bộ học tập. Phân tích số liệu Tổng Điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy, tỷ lệ trẻ em đi học bắt đầu giảm xuống từ 94,7% ở năm đầu của bậc trung học cơ sở (12 tuổi) xuống mức 83% ở nhóm trẻ em trong độ tuổi học lớp cuối cùng của bậc học này (15 tuổi). Đối với trẻ em trong nhóm tuổi học trung học phổ thông, tỷ lệ đi học giảm xuống còn 62,4% ở độ tuổi cuối cùng (18 tuổi) của bậc này. Trong cùng điều kiện xác định tác động bởi các biến số độc lập khác ở trong mô hình, biến số tuổi của trẻ em vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với xác suất đi học của trẻ em. Khi tăng thêm một tuổi của trẻ em thì xác suất đi học của trẻ em lại giảm xuống (Trần Quý Long, 2014). Sử dụng mô hình hồi quy nguy cơ xác suất Cox phân tích số liệu SAVY 2, nghiên cứu gần đây của tác giả cũng cho thấy, thanh, thiếu niên ở nhóm tuổi lớn hơn có khoảng thời gian đi học ngắn hơn, điều đó chứng tỏ trẻ em ở nhóm tuổi nhỏ hơn tập trung cho việc duy trì học vấn hơn (Trần Quý Long, 2013). Nhận định về tác động của yếu tố tuổi, một nghiên cứu cho rằng những trẻ em lớn tuổi hơn thường có mức độ trưởng thành hơn và có thể được chuẩn bị tốt hơn để đối mặt với những áp lực ở trường (bao gồm áp lực từ thầy cô giáo và các học sinh khác). Xác suất nhập học bậc trung học cơ sở giảm đi theo độ tuổi là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy sự đánh đổi mà những trẻ em lớn tuổi phải đối mặt, trẻ em (và gia đình) phải quyết định con đường nào là con đường tốt nhất nên chọn. Có thể nói, khi mỗi năm học qua đi, thời gian của trẻ em cũng có giá trị hơn vì thời gian đó có thể được sử dụng để đi làm tạo ra thu nhập, giúp đỡ việc trong nhà hoặc thậm chí có thể lập gia đình (Ngân hàng Thế giới và Các cơ quan khác, 2011).
5. Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em có những khác biệt mang tính nhiều mặt, trong khi lĩnh vực này rất quan trọng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phúc lợi cho từng cá nhân. Khả năng được tiếp cận giáo dục của trẻ em phụ thuộc một cách có ý nghĩa vào những yếu tố cộng đồng, gia đình và nhân khẩu học-xã hội của trẻ em.
Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc mở rộng và cải thiện mức độ tiếp cận giáo dục cho trẻ em. Nhà nước đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo và quyết tâm về mặt chính trị và đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực giáo dục. Nhà nước và bản thân các hộ gia đình đã nhận thức được rằng, việc cung cấp một loạt các hoạt động và cơ hội học tập cho trẻ em trong độ tuổi đi học sẽ đổi lại sự cải thiện trong việc sẵn sàng đi học; làm cho việc tuyển sinh vào lớp đầu các cấp học có nhiều khả năng hơn; giảm số học sinh nhập học muộn, bỏ học và lưu ban cũng như để có được những cá nhân phát triển ngôn ngữ, kỹ năng xã hội, có năng lực và ý chí.
Mặc dù vậy, nghiên cứu cho thấy tiếp cận giáo dục của trẻ em là không bình đẳng giữa những nhóm có đặc điểm khác nhau về thành phần dân tộc, học vấn của bố, mức sống và nơi cư trú. Trẻ em là người dân tộc thiểu số, trong những gia đình có bố với học vấn thấp, mức sống nghèo và sinh sống ở nông thôn, vùng sâu vùng xa gặp nhiều bất lợi hơn trong tiếp cận giáo dục trung học so với những trẻ em khác. Có thể nói một phần của sự khác biệt này là do sự phân phối hiếm hoi về nghề nghiệp, kỹ năng, nhu cầu xây dựng một xã hội công nghiệp thấp trong những khu vực kém phát triển, nghèo, dân tộc thiểu số. Vì thế nó đã khiến gia đình và cá nhân không chú trọng đầu tư thời gian và tiền bạc cho hoạt động tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em. Tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em tiếp tục có sự khác biệt khá lớn giữa những nhóm có hoàn cảnh xã hội khác nhau.
Có thể thấy sự phân bố các lợi ích trong lĩnh vực giáo dục là không công bằng do cách thức đầu tư xuất phát từ nguồn gốc bất bình đẳng về thu nhập, mức sống, địa vị. Nghiên cứu cho thấy đặc trưng vốn nhân lực của trẻ em thấp trong tương lai có xu hướng tập trung vào nhóm yếu thế. Cá nhân với vốn nhân lực thấp dễ rơi vào tình trạng nghèo đói hoặc từ tình trạng nghèo đói rơi xuống tình trạng nghèo đói hơn. Nếu các chính sách về giáo dục không được xây dựng hướng đến những nhóm trẻ em yếu thế, nghèo và thiệt thòi thì tình trạng bất bình đẳng kinh tế - xã hội trở nên tồi tệ hơn do chất lượng giáo dục thấp và các hệ thống trường lớp phân hóa rõ rệt. Và cứ như vậy, thế hệ tiếp theo sẽ lặp lại thế hệ trước trong việc sở hữu nguồn vốn nhân lực thấp kém.
Trẻ em trong độ tuổi học trung học là nhóm dân số đang ở vào giai đoạn đặc biệt của sự định hình phát triển. Đây cũng là nhóm được xếp vào nhóm tuổi vị thành niên, nhóm dân số đang tràn đầy sức lực và khả năng. Nhóm trẻ em này sẵn sàng mở mang đầu óc để tiếp thu kiến thức, học hỏi kỹ năng và tiếp nhận những giá trị mới. Thái độ của nhóm trẻ em vị thành niên trước cuộc sống vẫn đang được hình thành, tuy nhiên, nếu không được tiếp cận giáo dục vì lý do nào đó thì đây thực sự là một cơ hội đã bị bỏ lỡ.

Tài liệu tham khảo
1.   ADB và các cơ quan khác (2003), Báo cáo phát triển Việt Nam 2004: Nghèo. Báo cáo chung của các nhà tài trợ, Hà Nội.
2.   Bộ Giáo dục và Đào tạo, UNESCO, UNICEF (2008), Nghiên cứu về chuyển tiếp trẻ em gái người dân tộc thiểu số từ tiểu học lên trung học cơ sở, Hà Nội.
3.   Indu Bhushan, Erik Bloom, Nguyễn Minh Thắng và Nguyễn Hải Hữu (2001), Vốn nhân lực của người nghèo ở Việt Nam: Tình hình và các lựa chọn về chính sách, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
4.   Ngân hàng Thế giới (2001), Đưa vấn đề giới vào phát triển. Nxb. Văn hoá-Thông tin, Hà Nội.
5.   Ngân hàng Thế giới (2007), Báo cáo phát triển thế giới 2007: Phát triển và thế hệ kế cận, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6.   Ngân hàng Thế giới và Các cơ quan khác (2011), Việt Nam: Nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi người đến năm 2020, Tập II: Báo cáo phân tích, Hà Nội.
7.   Nguyễn Đức Vinh (2009), "Tác động của các yếu tố cá nhân và gia đình đến tình trạng đi học của trẻ em và thanh niên ở nông thôn", Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 26-43.
8.   Nhóm hành động chống đói nghèo (2002), Cung cấp giáo dục cơ bản có chất lượng cho mọi người, Báo cáo chung của các nhà tài trợ, Hà Nội.
9.   Nolwen Henaff và Jean Yves Martin (2001a), "Chiến lược cá nhân và gia đình", Nolwen Henaff và Jean Yves Martin (chủ biên), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm Đổi mới, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10. Nolwen Henaff và Jean Yves Martin (2001b), "Tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu lại xã hội", Nolwen Henaff và Jean Yves Martin (chủ biên), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm Đổi mới. Nxb. Thế giới, Hà Nội.
11. Tổng cục Thống kê (2011), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 - Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu, Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam, Hà Nội.
12. Tổng cục Thống kê (2015), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các kết quả chủ yếu, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
13. Trần Quý Long (2013), "Các yếu tố gia đình ảnh hưởng đến tuổi thôi học của thanh thiếu niên Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 2, 29-42.
14. Trần Quý Long (2014), "Tiếp cận giáo dục của trẻ em Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng", Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 4, tr. 48-58.
15. Trần Quý Long (2016), "Tiếp cận giáo dục của trẻ em gái ở nhóm tách biệt xã hội về điều kiện sống". Võ Khánh Vinh và Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), Các chiều cạnh giới của sự tách biệt xã hội hướng tới chính sách toàn diện hơn đối với phụ nữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 201-216.
16. Trần Quý Long (2017), Khác biệt xã hội trong tiếp cận giáo dục của trẻ em. Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Hà Nội.
17. Trịnh Duy Luân (2006), "Sự tham gia xã hội của thanh niên thời kỳ đổi mới", Tạp chí Xã hội học, số 2 (94), tr. 3-13.
18. UNDP (2011), Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011: Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc.
19. Võ Thanh Sơn, Trương Thị Kim Chuyên, Đoàn Thuận Hòa, Nguyễn Thị Thùy, Đỗ Văn Hợi, Hồ Thanh Bình và Lê Ngọc Can (2001), "Đi học và bỏ học của học sinh. Dominique Haughton, Jonathan Haughton và Nguyễn Phong (chủ biên), Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

No comments:

Post a Comment