Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2015). Sử dụng thời gian làm việc nhà của trẻ em Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, số 6, tr. 22-33.
1. Giới thiệu
Trẻ em làm việc phù hợp với độ tuổi và thể chất có nghĩa là giúp cha mẹ việc nhà, tham gia hoạt động kinh doanh buôn bán của gia đình hoặc kiếm tiền tiêu vặt bằng cách làm thêm ngoài giờ học hoặc trong kỳ nghỉ. Các hoạt động trên góp phần vào sự phát triển của trẻ em cũng như tình hình kinh tế của gia đình, giúp cho trẻ em có được một số kỹ năng và kinh nghiệm, đồng thời chuẩn bị cho trẻ trở thành những thành viên có ích của xã hội khi trưởng thành (UNICEF, 2010).
Làm việc để giúp cha mẹ bằng cách chia sẻ công việc nhà hoặc trực tiếp đóng góp về tài chính và có thể xem như là một cách để trẻ em Việt Nam xây dựng lòng tin và tự trọng cho tương lai (UNICEF, 1994). Trẻ em đóng vai trò quan trọng trong công việc nhà bởi vì giúp được các thành viên người lớn trong gia đình có thời gian làm những công việc khác chứ không phải làm những công việc vừa mất thời gian vừa kém hiệu quả (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Trẻ em tham gia làm việc nhà là biểu hiện chuẩn mực của lòng hiếu thảo, là một phương thức gia tăng giá trị nhân cách, phản ánh sức mạnh của truyền thống đã bắt rễ sâu xa trong một nền văn hóa phương Đông (Trần Quý Long, 2009).
Nghiên cứu này được thiết kế nhằm trình bày và tìm hiểu thực trạng về số lượng thời gian mà trẻ em sử dụng để làm việc nhà trong gia đình như thế nào? Những yếu tố nhân khẩu học-xã hội nào có ảnh hưởng đến việc sử dụng số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em?
Số lượng thời gian được trẻ em sử dụng khác nhau ở các hoạt động trong đời sống. Thời gian làm việc nhà trong gia đình của trẻ em được giải thích bởi những đặc điểm nhân khẩu học như tuổi, giới tính. Trẻ em bắt đầu giúp đỡ bố mẹ những công việc nhà khi còn nhỏ tuổi. Khối lượng công việc và số giờ làm việc phụ thuộc vào độ tuổi của trẻ em cho dù có đi học hay không. Khi trẻ em lớn hơn thì gia đình yêu cầu các em nhiều hơn và do đó thời gian trẻ em dành cho công việc tăng hơn. Một nghiên cứu đã được tiến hành với 431 trẻ em (228 trẻ em gái) tại 6 xã thuộc hai huyện của hai tỉnh Thanh Hóa và Hà Tĩnh ở khu vực Bắc Trung Bộ về tình hình lao động của trẻ em. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, hầu hết trẻ em ở nơi tiến hành khảo sát đã bắt đầu làm một số việc trong nhà và quanh nhà khi được khoảng 4 tuổi. Những công việc đầu tiên của các em thường làm là quét sân và nhà, rửa bát, trông nhà và trông em. Khi lớn hơn, trẻ em được giao nhiều nhiệm vụ hơn và khoảng 8-9 tuổi trẻ em chịu trách nhiệm ngày càng lớn với những việc vặt trong nhà. Số lượng các công việc trẻ em làm để giúp cha mẹ tăng lên rất nhiều tới khi trẻ em được 10 tuổi. Nhờ có trẻ em làm những công việc nhà mà người lớn có thể dành thời gian của mình tập trung vào những việc làm có thu nhập cao hơn (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Tương tự, thông tin thu được qua phương pháp trẻ em tham gia ở 1 xã đồng bằng sông Hồng cho thấy, trẻ em trong độ tuổi 10-15 đã giúp đỡ cha mẹ trong hầu hết những công việc gia đình (Nguyễn Thị Vân Anh và Vân Anh, 1998). Sử dụng số liệu từ cuộc “Điều tra mức sống ở Việt Nam” năm 1992 và 1993 với số lượng mẫu 4800 hộ gia đình, một nghiên cứu kết luận rằng, một đứa trẻ càng lớn thì càng sử dụng nhiều thời gian trong làm việc nhà. Biến số tuổi không chỉ phản ánh khả năng tham gia làm việc của trẻ em mà còn làm nổi bật trẻ em là nguồn cung cấp lao động riêng cho hộ gia đình (Amy Liu và Yuk Chu, 1997).
Theo cách phân công lao động truyền thống thì trẻ em gái có trách nhiệm nhiều hơn trong các công việc nội trợ so với trẻ em trai. Kết quả phân tích của một nhóm tác giả cho thấy, con gái làm công việc nội trợ nhiều hơn so với con em trai là 2,486 giờ một tuần (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Trong thực tế thì chính hoàn cảnh của từng hộ gia đình quyết định việc phân chia lao động giữa các thành viên trong gia đình, và nhất thiết không có sự phân công lao động theo giới tính. Tuy nhiên, tính trung bình trẻ em gái làm việc nhà nhiều hơn trẻ em trai. Kết quả này phản ánh hình mẫu chung trên khắp thế giới nơi mà người ta đều xác định rằng, nhìn chung phụ nữ và trẻ em gái làm việc nhiều giờ hơn nam giới và trẻ em trai (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Con cái là một nguồn giúp đỡ trong công việc nội trợ trong gia đình, nhưng mức độ không phải là như nhau giữa con trai và con gái. Mặc dù số con trai và con gái trung bình trong mỗi hộ gia đình của mẫu nghiên cứu là như nhau nhưng con gái là yếu tố đáng kể trong việc giảm công việc nội trợ của người vợ trong gia đình (Vũ Tuấn Huy và Deborah S. Carr, 2000). Kết quả khảo sát vị thành niên ở 6 tỉnh/ thành phố được lựa chọn là Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tây, Quảng Nam-Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Kiên Giang cho thấy, vị thành niên sử dụng trên dưới 10% thời gian trong ngày (tương đương khoảng 2,5 giờ đồng hồ) cho các công việc nhà, và các em gái chi dùng thời gian nhiều gấp đôi các em trai (Barbara S. Mensch và cộng sự, 2000).
Các nghiên cứu cho thấy rằng không chỉ những đặc điểm nhân khẩu riêng của trẻ em có tầm quan trọng mà những đặc điểm của bố mẹ và những chiều cạnh khác của hộ gia đình là vấn đề quan trọng trong sử dụng thời gian làm việc của trẻ em ở bên trong hộ gia đình. Thu nhập của hộ gia đình là một yếu tố quan trọng có thể dẫn đến trẻ em dành nhiều thời gian cho việc học hành và ít thời gian cho công việc nội trợ (Amy Liu và Yuk Chu, 1997).
Phân bố thời gian của trẻ em ở một mức độ nào đó phụ thuộc vào anh em của chúng làm cái gì, nói cách khác một đứa trẻ làm cái gì bị ảnh hưởng không chỉ bởi địa vị của chúng trong sự phân công chung của tất cả trẻ em trong gia đình, mà còn bởi yếu tố giới của anh chị em của chúng (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Gia đình đông con cũng có thể là lý do khiến các em lớn hơn trong gia đình phải nghỉ học sớm, bởi vì cha mẹ các em cần các em phụ giúp và cũng bởi vì cha mẹ các em không thể lo cho tất cả các con đi học cùng lúc được (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Sự hiện diện của ông bà cho thấy trẻ em làm công việc nội trợ ít hơn, làm nổi bật vai trò của ông bà như một nguồn lao động có khả năng trong hộ gia đình (Amy Liu và Yuk Chu, 1997).
Trẻ em ở khu vực đô thị có xu hướng làm việc nội trợ ít hơn so với trẻ em nông thôn. Kết quả này hình như gợi ý rằng trẻ em trong khu vực đô thị có thể có nhiều thời gian rỗi hơn trẻ em ở khu vực nông thôn (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Do các gia đinh ở vùng nông thôn Việt Nam có thu nhập thấp, nhất là những vùng khó khăn và miền núi, trẻ em thường phải đỡ đần việc gia đình và làm thêm. Vị thành niên nông thôn sử dụng thời gian nhiều gấp hai lần so với các em ở thành thị. Sự khác biệt nông thôn-thành thị là rất đáng lưu ý trong kết quả vì đặc điểm công việc nhà khá khác nhau giữa hai khu vực. Song dù ở đâu thì vẫn có thể kết luận rằng các em gái phải dành nhiều thời gian đảm đương việc nhà hơn em các em trai (Barbara S. Mensch và cộng sự, 2000).
3. Số liệu, biến số và kỹ thuật phân tích
3.1. Số liệu
Nghiên cứu sử dụng số liệu của cuộc Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ Việt Nam lần thứ 4 vào năm 2011 (MICS 4). Đây là cuộc điều tra được thiết kế nhằm cung cấp các ước lượng tin cậy cho nhiều chỉ tiêu phản ánh tình hình trẻ em và phụ nữ ở cấp quốc gia, thành thị và nông thôn và 6 vùng ở Việt Nam. Mẫu điều tra MICS 4 bao gồm 12.000 hộ gia đình đã được chọn dựa trên các địa bàn của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Trong số những hộ gia đình được chọn, 11.642 hộ gia đình đã có mặt trong thời gian điều tra và 11.614 hộ gia đình đã được phỏng vấn thành công, đạt tỷ lệ hộ trả lời 99,8% (Tổng cục Thống kê, 2011). Trong cuộc điều tra này, có 7.511 trẻ em trong độ tuổi 5-14 được chọn từ 11.614 hộ gia đình để phỏng vấn qua người đại diện hộ gia đình. Tuy nhiên, chỉ có 3.938 trẻ em tham gia làm việc nhà trong vòng 7 ngày trước cuộc khảo sát, vì thế đây cũng là số lượng mẫu tham gia trong nghiên cứu này.
3.2. Biến số phụ thuộc
Trong bảng hỏi của MICS 2011, có một câu hỏi xác định số lượng thời gian làm việc nhà được tính bằng giờ của trẻ em 5-14 tuổi trong khoảng thời gian 7 ngày trước thời điểm khảo sát. Các công việc được đề cập đến bao gồm: Đi chợ, dọn dẹp, giặt quần áo, nấu ăn hoặc chăm sóc trẻ em, người già, người ốm. Kết quả phân tích ban đầu cho thấy số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em không có phân phối chuẩn và lệch dương (positive skewness) do vậy bắt buộc phải chuyển sang dạng thang đo logarit nhằm làm cho nó ít lệch chuẩn hơn. Vì thế, biến số phụ thuộc trong nghiên cứu này là logarit số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em trong vòng 7 ngày trước cuộc khảo sát.
3.3. Biến số độc lập
Các biến số cơ bản về đặc trưng nhân khẩu học và tình trạng kinh tế, xã hội ở cấp độ cá nhân và hộ gia đình sử dụng trong nghiên cứu đóng vai trò là các biến số độc lập trong mối liên hệ với số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em (biến số phụ thuộc).
Những biến số phản ánh đặc trưng của trẻ em: Mỗi trường hợp trẻ em được khảo sát đều có những thông số cơ bản như tuổi, giới tính, thành phần dân tộc, và tình trạng đi học có thể chi phối đến số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em. Biến số tuổi trẻ em nhận giá trị liên tục (continuous variable) từ 5 đến 14 và được xác định vào thời điểm điều tra. Các biến số còn lại là các biến giả (dummy variable) và chỉ nhận một trong hai giá trị, bằng 1 nếu điều kiện được thỏa mãn và bằng 0 nếu ngược lại. Chẳng hạn, nếu giới tính trẻ em là nữ thì biến giả tương ứng sẽ bằng 1, và ngược lại sẽ bằng 0.
Có hai biến số phản ánh đặc trưng của người mẹ/người chăm sóc chính là tuổi và trình độ học vấn. Tuổi người mẹ là biến số liên tục còn học vấn người mẹ được xây dựng với tính chất là biến số giả với giá trị 1 là ‘trung học phổ thông trở lên’ và 0 là ‘trung học cơ sở trở xuống’.
Những biến số phản ánh đặc trưng của gia đình được đưa vào phân tích bao gồm số thành viên gia đình (cũng là một biến số định lượng), chênh lệch nam - nữ về số người trưởng thành trong hộ gia đình, mức sống, nơi cư trú ‘thành thị-nông thôn’, và 6 vùng địa lý tự nhiên, kinh tế-xã hội của quốc gia.
Về biến số chênh lệch nam - nữ là người trưởng thành trong hộ gia đình, do những khác biệt giới, nam và nữ giữ vai trò khác nhau trong cuộc sống gia đình. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam, người phụ nữ thường gánh trách nhiệm quản lý các công việc gia chánh, giáo dục chăm sóc trẻ em trong khi nam giới thiên về vai trò làm kinh tế. Cũng như vậy, quyền quyết định trong công việc của gia đình như đầu tư kinh doanh sản xuất, học hành, chăm sóc con cái không giống nhau giữa hai giới. Sự chênh lệch nam nữ trong số thành viên trưởng thành của hộ (tính từ 18 tuổi trở lên) có thể có tác động đến các hoạt động phúc lợi gia đình (Đặng Nguyên Anh, 2000), bao gồm cả việc phân bố thời gian làm việc nhà của trẻ em. Nhằm đo lường được ảnh hưởng của biến số này, nghiên cứu sử dụng một biến số so sánh số thành viên nam - nữ là người trưởng thành trong hộ gia đình. Biến số này phản ánh ba tình huống trong thực tế: nam nữ ngang bằng nhau, nam nhiều hơn nữ, và nữ nhiều hơn nam trong một hộ gia đình.
Biến số tình trạng kinh tế hộ gia đình được xây dựng dựa trên phương pháp phân tích thành phần cơ bản với những thông tin về sở hữu hàng hóa và tài sản của gia đình để gán quyền số cho mỗi loại tài sản của gia đình đồng thời tính điểm giàu nghèo cho mỗi gia đình trong mẫu khảo sát. Các tài sản được sử dụng để tính toán bao gồm: radio, tivi, điện thoại di động, điện thoại cố định, tủ lạnh, xe đạp, xe máy, ô tô, thuyền, điện, loại sàn nhà, loại mái nhà, loại tường, loại nhiên liệu, số phòng ngủ, nước, và công trình vệ sinh. Sau đó mỗi gia đình được gia quyền theo số thành viên và tổng thể các gia đình được chia thành 5 nhóm có quy mô bằng nhau và được xếp loại từ nhóm 20% nghèo nhất tới nhóm 20% giàu nhất dựa trên điểm giàu nghèo của gia đình. Chỉ số giàu nghèo được giả định có thể nắm bắt được tiềm năng của cải lâu dài của gia đình thông qua những thông tin về tài sản của gia đình và nhằm mục đích sắp xếp các gia đình theo mức sống từ nhóm nghèo nhất đến nhóm giàu nhất. Chỉ số giàu nghèo không nhằm cung cấp thông tin về nghèo đói tuyệt đối, thu nhập hoặc mức chi tiêu tại thời điểm khảo sát của gia đình (Tổng cục Thống kê, 2011).
Kỹ thuật phân tích
Mặc dù kỹ thuật phân tích hai chiều cũng làm sáng tỏ khi xem xét các tác động của các yếu tố đối với số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em nhưng phương pháp này cũng có nhược điểm là các tác động có thể tương quan lẫn nhau, và do đó có thể không phải tất cả đều thể hiện tác động độc lập. Để giải quyết vấn đề này, cần phải thực hiện một mô hình hồi quy đa biến nhằm xác định quan hệ nhân quả giữa các yếu tố nhân khẩu học, kinh tế-xã hội đối với số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em.
Bởi vì biến số phụ thuộc có tính chất là liên tục nên mô hình hồi quy tuyến tính được áp dụng. Hồi quy tuyến tính cố gắng quy các điểm rời rạc của dữ liệu về một đường thẳng theo phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS).
4. Nội dung nghiên cứu
Thống kê mô tả
Thống kê mô tả cho tất cả biến số dùng để phân tích được trình bày trong bảng 1. Kết quả phân tích cho thấy, trong tổng số 3.938 trẻ em 5-14 tuổi tham gia nghiên cứu, số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em trong vòng 7 ngày trước thời điểm khảo sát trung bình là 6,68 giờ, và có phân phối từ 1 đến 56 giờ. Độ tuổi trung bình của trẻ em tham gia nghiên cứu khoảng 11 tuổi.
Trong mẫu phân tích, tỷ lệ trẻ em trai và trẻ em gái gần như tương đương nhau, 46% và 54%. Trẻ em dân tộc Kinh/Hoa chiếm tỷ lệ 83% và có đến 96% trẻ em đang đi học tại thời điểm khảo sát.
Học vấn của người mẹ từ trung học cơ sở trở xuống chiếm 82% trong mẫu nghiên cứu, còn lại là tỷ lệ của nhóm người mẹ có học vấn trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp, cao đẳng trở lên, 18%. Tuổi trung bình của người mẹ/người chăm sóc chính khoảng 40 tuổi.
Bảng 1. Các đặc trưng nhân khẩu học,
kinh tế-xã hội của mẫu phân tích
|
|||
Yếu tố
|
Đặc trưng
|
Trung bình
|
Độ lệch chuẩn
|
Số
giờ làm việc nhà
|
6,68
|
5,119
|
|
Tuổi
của trẻ em
|
10,97
|
2,407
|
|
Giới tính
|
0,46
|
0,498
|
|
Nữ
|
0,54
|
0,498
|
|
Dân tộc
|
Kinh/ Hoa
|
0,83
|
0,375
|
DTTS
|
0,17
|
0,375
|
|
Đi học
|
Có
|
0,96
|
0,195
|
Không
|
0,04
|
0,175
|
|
Tuổi của mẹ
|
39,13
|
8,356
|
|
Học vấn của mẹ
|
=< THCS
|
0,82
|
0,382
|
THPT +
|
0,18
|
0,382
|
|
Số thành viên
|
4,67
|
1,496
|
|
Số người trưởng
thành
|
0,66
|
0,475
|
|
0,23
|
0,419
|
||
0,12
|
0,323
|
||
Mức sống
|
Nghèo nhất
|
0,25
|
0,432
|
Cận nghèo
|
0,24
|
0,425
|
|
Trung bình
|
0,21
|
0,405
|
|
Giàu
|
0,17
|
0,380
|
|
Giàu nhất
|
0,13
|
0,341
|
|
Khu vực
|
Thành thị
|
0,22
|
0,411
|
Nông thôn
|
0,78
|
0,411
|
|
Vùng
|
Đồng bằng sông Hồng
|
0,19
|
0,392
|
Trung du và miền núi phía bắc
|
0,19
|
0,393
|
|
BTB Bộ và DHMT
|
0,23
|
0,420
|
|
Tây Nguyên
|
0,08
|
0,264
|
|
Đông
|
0,13
|
0,338
|
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
0,18
|
0,388
|
Nguồn: Tính toán từ Điều
tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, 2011.
Số thành viên gia đình trong mẫu nghiên cứu có số trung
bình là 4,7 người với khoảng biến thiên từ 2 người đến 15 người. Hai phần ba số
hộ gia đình có tỷ lệ ngang nhau về số thành viên nam và nữ trưởng thành. Còn
lại là số nam nhiều hơn số nữ với 23% và số nữ nhiều hơn số nam là 12%. Tỷ lệ
hộ gia đình phân loại theo 5 nhóm mức sống đã có sự thay đổi chút ít về cơ cấu
mẫu, theo đó, hộ nghèo nhất có tỷ lệ tăng lên 25%, trong khi hộ giàu nhất giảm
xuống còn 13%.
Gần bốn phần năm số lượng hộ gia đình trong mẫu nghiên
cứu cư trú ở khu vực nông thôn, 78%, ngược lại, tỷ lệ cư trú ở khu vực thành
thị là 22%. Trong 6 vùng tham gia vào mẫu của nghiên cứu, tỷ lệ được nhìn thấy
là thấp nhất ở khu vực Tây Nguyên, 8%, tỷ lệ thấp thứ hai là vùng Đông Nam Bộ
(khoảng 13%). Các vùng còn lại có tỷ lệ không khác nhau nhiều, chênh lệch
khoảng 5%.
Phân tích đa biến
Kết quả ước lượng hồi quy đa biến bằng thủ
tục OLS được trình bày ở bảng 2 cho thấy, tuổi của trẻ em là một biến số quan trọng và có mối quan
hệ đồng biến với số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em khi tính đến tác
động của các biến số độc lập khác trong mô hình. Khi trẻ em tăng thêm 1 tuổi
thì xác suất làm việc nhà của trẻ em cũng tăng theo tương ứng với 10,3% và rất
có ý nghĩa thống kê (p=0,000). Điều này hàm ý rằng sự tín nhiệm của gia đình
đối với trẻ em trong công việc nhà càng tăng lên khi trẻ em càng lớn tuổi hơn.
Bảng 2: Mô hình hồi quy
về tác động của các yếu tố đến số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em
(thủ tục OLS)
|
|||
Hệ
số
|
Giá
trị t
|
Giá
trị p
|
|
Biến số phụ thuộc
|
|||
Logarit số thời gian làm
việc nhà của trẻ em
|
|||
Biến số độc lập
|
|||
Hằng số
|
,783
|
6,597
|
,000
|
Tuổi của trẻ em
|
,096
|
19,642
|
,000
|
Trẻ em gái
|
,161
|
7,196
|
,000
|
Dân tộc Kinh/ Hoa
|
,050
|
1,287
|
,198
|
Đi học
|
-,130
|
-2,211
|
,027
|
Tuổi của mẹ
|
-,002
|
-1,579
|
,114
|
Học vấn mẹ >=THPT
|
-,057
|
-1,692
|
,091
|
Số thành viên gia đình
|
-,027
|
-3,485
|
,000
|
Số nữ trưởng thành < số
nam
|
-,020
|
-,542
|
,588
|
Số nữ trưởng thành > số
nam
|
-,067
|
-2,392
|
,017
|
Trung bình
|
-,060
|
-1,919
|
,055
|
Giàu
|
-,146
|
-4,136
|
,000
|
Giàu nhất
|
-,258
|
-5,693
|
,000
|
Nông thôn
|
,063
|
1,991
|
,047
|
Miền núi phía Bắc
|
,091
|
2,163
|
,031
|
BTB và Duyên hải miền Trung
|
,075
|
2,098
|
,036
|
Tây Nguyên
|
,150
|
2,958
|
,003
|
Đông
|
,123
|
3,055
|
,002
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
-,125
|
-3,304
|
,001
|
Ghi chú: Các nhóm tham khảo
bao gồm: Trẻ em trai; Dân tộc thiểu số; Không đi học; Học vấn mẹ từ trung học
cơ sở trở xuống; Số thành viên nam trưởng thành bằng số thành viên nữ; Mức sống
gia đình nghèo nhất và nghèo; Thành thị; và đồng bằng sông Hồng.
Nguồn: Tính toán từ Điều tra
đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, 2011.
Trẻ em gái phải làm việc nhà với số lượng
thời gian nhiều hơn trẻ em trai. Khi tính đồng thời tác động của các biến độc
lập khác có trong mô hình, số lượng thời gian trẻ em gái phải làm việc nhà cao
hơn 17,9% so với trẻ em trai (p=0,000). Điều này là một bất lợi cho trẻ em gái,
bởi vì nếu xét thực tế cùng được đi học như nhau nhưng số lượng thời gian làm
việc nhà của trẻ em gái nhiều hơn có thể rất ảnh hưởng đến việc học hành, nghỉ
ngơi và giải trí của các em.
Một kết quả quan trọng là với các tác động
khác không đổi, tác động của biến số ‘dân tộc Kinh/ Hoa’ đến số lượng thời gian
làm việc nhà của trẻ em không có ý nghĩa thống kê. Qua đó có thể nói rằng,
không có sự chênh lệch về số lượng thời gian làm việc nhà giữa trẻ em người Kinh/
Hoa và người dân tộc thiểu số.
Đối với
các em không đi học, số lượng thời gian làm việc nhà trong tuần trước thời điểm
khảo sát cao hơn so với trẻ em đang đi học. Khi tính đến ảnh hưởng của các biến
số khác trong mô hình, hệ số hồi quy của biến số ‘đi học’ mang dấu âm (-) cho
thấy số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em đang đi học thấp hơn so với trẻ
em không đi học 12,3%.
Tuổi của người mẹ/ người chăm sóc chính không có ảnh
hưởng đến số thời gian làm việc nhà của trẻ em. Nói cách khác, cho dù người
mẹ/người chăm sóc chính có số tuổi như thế nào thì số lượng thời làm việc nhà
của trẻ em là giống nhau trong cùng một điều kiện. Ngược lại, yếu tố học vấn
của người mẹ/ người chăm sóc chính có xu hướng ảnh hưởng đến số lượng thời gian
làm việc nhà của trẻ em. Hệ số hồi quy trong mô hình của biến số học vấn mẹ từ
trung học phổ thông trở lên mang dấu âm cho thấy số lượng thời gian làm việc
nhà của trẻ em thấp hơn so với nhóm trẻ em có mẹ với học vấn từ trung học cơ sở
trở xuống.
Kết quả phân tích cho thấy rõ, khi gia
đình tăng thêm một thành viên thì số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em
giảm xuống. Điều này nói lên rằng, khi có nhiều thành viên trong gia đình thì
công việc nhà của trẻ em đã được chia sẻ phần nào. Số lượng thời gian làm việc
nhà của trẻ em cũng được chia sẻ từ các thành viên nữ giới trưởng thành trong
gia đình. So với những gia đình có số lượng nam và nữ trưởng thành bằng nhau,
trẻ em trong gia đình có số thành viên nữ trưởng thành nhiều hơn số nam giới có
số lượng thời gian làm việc nhà thấp hơn 6,6%.
Mức sống của gia đình là một yếu tố quan
trọng trong việc quyết định giảm số lượng thời gian dành cho việc nhà của trẻ
em và mối quan hệ giữa hai yếu tố này là nghịch biến. Nói cách khác, khi tính
đến tác động của các biến số độc lập khác trong mô hình, gia đình có mức sống
cao hơn thì trẻ em có số lượng thời gian làm việc nhà thấp hơn. Cụ thể, so với
nhóm có điều kiện sống nghèo và nghèo nhất (từ 40% trở xuống trong nhóm ngũ
phân vị), số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em ở nhóm mức sống trung bình
thấp hơn 6,2%, Trong khi đó, số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em ở nhóm
giàu và giàu nhất lần lượt thấp hơn 13,9% và 23,2%, tác động này rất có ý nghĩa
thống kê (p=0,000).
Tác động của các yếu tố nơi cư
trú là nông thôn khá rõ ràng. Một khi kiểm soát được ảnh hưởng của các yếu tố
khác trong mô hình, số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em ở khu vực nông thôn cao hơn 6,7% so với trẻ em ở khu vực thành
thị.
Trẻ em ở các vùng khác (ngoại trừ vùng
đồng bằng sông Cửu Long) đều có số lượng thời gian làm việc nhà cao hơn vùng so
sánh là đồng bằng sông Hồng, trong đó khu vực Tây Nguyên cao hơn 16,2%, Đông
Nam Bộ cao hơn 13,6%. So với đồng bằng sông Hồng, trẻ em ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long có số lượng thời gian làm việc nhà thấp hơn khoảng 12%. Điều này
thể hiện đặc điểm văn hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long là người phụ nữ
thường ở nhà làm công việc nội trợ nên phần nào số lượng thời gian làm việc nhà
của trẻ em ở khu vực này thấp hơn so với các vùng khác trong cả nước.
5. Thảo luận và kết luận
Bản chất của công việc nhà ngày càng
thay đổi nhanh khi nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang kinh tế thị trường. Từ
xưa đến nay, người ta vẫn thường gọi công việc nội trợ gia đình là “việc vặt”.
Mặc dù được đánh giá thấp nhưng nhiều nghiên cứu hộ gia đình đã cho thấy vai
trò của công việc gia đình vô cùng quan trọng và đó là một khối lượng công việc
rất lớn, tiêu tốn rất nhiều thời gian và sức lực của người thực hiện. Số lượng
và thời gian trẻ em tham gia vào các công việc nhà trong gia đình không mang lại
các sản phẩm đầu ra bán được trên thị trường nhưng nó lại có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với gia đình và bản thân các em.
Kết quả phân tích cho thấy những đặc
điểm nhân khẩu học-xã hội của trẻ em như tuổi, giới tính, thành phần dân tộc, và
được đi học hay không có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích số lượng thời
gian trẻ em ở độ tuổi 5-14 làm việc nhà trong vòng 7 ngày trước thời điểm khảo
sát MICS 4. Nhìn chung, trẻ em càng lớn tuổi hơn càng sử dụng thời gian làm việc
nhà nhiều hơn. Tầm quan trọng của biến số tuổi trẻ em hàm ý rằng, một mặt phản
ánh khả năng tham gia làm việc nhà của trẻ em tăng lên do phát triển về mặt
sinh học, mặt khác làm nổi bật trẻ em là nguồn cung cấp dịch vụ lao động riêng
trong nội bộ gia đình như các nghiên cứu đã đề cập.
Trong thực tế thì chính hoàn cảnh của
từng hộ gia đình quyết định việc phân công
làm việc nhà giữa các thành viên trong gia đình, không nhất thiết có sự phân
chia theo giới tính. Mặc dù vậy, nghiên cứu này cho thấy phân công lao động
trong công việc nhà vẫn bảo lưu giá trị truyền thống khi số lượng thời gian làm
việc nhà của trẻ em gái nhiều hơn trẻ em trai. Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới, khi con gái đến
tuổi thiếu nữ, chúng thường được mong đợi dành nhiều thời gian hơn cho việc nhà
như nấu nướng, dọn dẹp, đi lấy nước và chất đốt, và chăm sóc em nhỏ. Trong khi
đó, con trai thường sử dụng nhiều thời gian cho công việc đồng áng hay làm việc
kiếm tiền (Ngân hàng Thế giới, 2001). Sự dai dẳng của mô hình phân công lao động nội trợ
có tính chất phân biệt giới qua các kết quả nghiên cứu gần đây (Trần Quý Long, 2008; Vũ Tuấn Huy, 2004; Vũ Tuấn Huy và Deborah S. Carr, 2000) có thể là hệ quả của quá trình xã hội hóa vai trò giới
ngay từ khi trẻ em tham gia các công việc gia đình như thế này. Kết quả phân tích của nghiên cứu
gợi ý rằng nếu cứ tiếp tục với mô hình như thế này thì trẻ em gái sẽ gặp nhiều
bất lợi hơn trong cuộc sống, thậm chí phải trả giá bằng việc không tham gia hoặc
từ bỏ học đường sớm, sức khỏe thể chất và tinh thần cũng trở nên yếu kém hơn.
Vì thế, giảm số lượng thời gian làm việc nhà khác nhau giữa trẻ em gái và trẻ
em trai là điều hết sức cần thiết.
Kết quả phân
tích cho thấy, trẻ em đi học có số lượng thời gian làm việc nhà ít hơn so với
trẻ em không được đi học. Đối với các em không
đi học thì thời gian làm việc trong mỗi ngày tăng lên đến khoảng 8 tiếng hoặc
nhiều hơn (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền,
1997). Điều này làm phức tạp thêm các chính sách nhằm giảm
thời gian của trẻ em trong lao động và tăng thời gian đi học của chúng. Không
chỉ đối với các nhà lập chính sách phải tính phí giáo dục trực tiếp có tính khả
thi đối với hộ gia đình, mà họ phải xem xét chi phí cơ hội gia đình phải gánh
vác do những người lao động không có việc làm hoặc đã nghỉ hưu trong khi trẻ em
còn đang đi học (Amy Liu và Yuk Chu, 1997) .
Trẻ em trong gia đình có số lượng thành viên nhiều
hơn, số thành viên nữ nhiều hơn số thành viên nam trưởng thành có khả năng sử
dụng số thời gian cho làm việc nhà ít hơn. Do đó bất cứ chính sách nào nhằm ảnh
hưởng đến hành vi phân bố thời gian của trẻ em không chỉ nhằm mục tiêu vào
những khu vực có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ em, mà còn phải chú ý đến những
quan hệ lẫn nhau có thể có giữa các thành viên của hộ gia đình (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Điều kiện sống của hộ gia đình yếu kém hơn là một
yếu tố quan trọng có thể dẫn đến việc trẻ em dành ít thời gian hơn cho việc học
hành và dành nhiều thời gian hơn cho các công việc nhà. Nếu các chi phí cơ hội
của việc mất lao động trẻ em làm việc trong gia đình cao thì có khả năng ngăn
cản các hộ gia đình nghèo đầu tư vào giáo dục cho trẻ em, đặc biệt cho con gái
là những người mà các chi phí cơ hội này lớn hơn.
Trẻ em ở khu vực nông thôn phải làm việc nhà với số
lượng thời gian nhiều hơn trẻ em thành thị. Kết quả này cho thấy, do cuộc sống
khó khăn và vất vả nên nhiều gia đình ở khu vực nông thôn nhìn nhận trẻ em như
những người trợ giúp chính trong các công việc nhà. Khối lượng công việc nội
trợ trong gia đình nông thôn có thể nói là rất nhiều và phong phú, do đó sự hỗ
trợ từ người khác trong gia đình là điều rất cần thiết. Rõ ràng là nếu thiếu sự
hỗ trợ của các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là con cái sẽ dẫn đến
số lượng công việc nội trợ dành cho phụ nữ nhiều hơn (Trần Quý Long, 2008). Ngược lại, do mức sống tương đối cao nên nhiều gia
đình ở khu vực thành thị đã mua sắm được nhiều trang thiết bị vật chất tiện
nghi và hiện đại hoặc có thể thuê người làm toàn bộ thời gian hay bán thời gian
nên phần nào giảm bớt được số lượng thời gian làm công việc nhà cho trẻ em.
Thêm vào đó, do cơ hội phát sinh thu nhập, phụ nữ ở nông thôn phải tham gia
hoạt động sản xuất với cường độ cao hơn vì thế nhu cầu sử dụng thời gian làm
việc nhà của trẻ em có thể cao hơn so với khu vực thành thị.
Công ước quốc tế về Quyền trẻ em đã chỉ ra rằng việc
nghỉ ngơi cũng quan trọng đối với sự phát triển của trẻ em như dinh dưỡng, chăm
sóc sức khỏe và giáo dục. Bảo vệ quyền này của trẻ là rất quan trọng đối với
trẻ em phải lao động làm việc nhà và có rất ít thời gian để vui chơi, tham gia
các hoạt động giải trí phù hợp với lứa tuổi, hoặc không tiếp cận được với những
địa điểm vui chơi. Nghiên cứu về phát triển con người cũng nhấn mạnh rằng trẻ
em có những nhu cầu riêng và mức độ các nhu cầu này được đáp ứng có ảnh hưởng
đáng kể đến kết quả phát triển thanh thiếu niên và người lớn của chúng. Nếu
việc sử dụng số lượng thời gian làm việc nhà của trẻ em nhiều hơn thời gian để
học tập, vui chơi và giải trí thì đó là một điều các gia đình cần phải hết sức
cân nhắc.
Tài
liệu tham khảo
1. Amy Liu và
Yuk Chu (1997), Mô hình sử dụng thời gian của trẻ em Việt Nam, Tạp chí xã hội học, số 2, tr. 91-98.
2. Barbara S. Mensch, Đặng Nguyên Anh và Wesley H Clark (2000), Vị thành niên và biến đổi xã hội ở Việt Nam,
Hội đồng dân số và Viện Xã hội học, Hà Nội.
3. Đặng Nguyên Anh (2000), "Cấu trúc hộ gia đình và sức khỏe trẻ
em: những phát hiện qua khảo sát nhân khẩu học và sức khỏe 1997", Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 61-74.
4. Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền (1997), Từ việc nhà đến khai thác vàng: Lao động trẻ em ở nông thôn Việt Nam,
Save the Children, Hà Nội.
5. Ngân hàng Thế giới (2001), Đưa
vấn đề giới vào phát triển, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Vân Anh và Vân Anh (1998), "Sự thay đổi cơ cấu ngành
nghề và việc chăm sóc, giáo dục trẻ em: Khảo sát tại một xã ven đô", Tạp
chí Xã hội học, số 4, tr. 56-65.
7. Tổng cục Thống kê (2011), Việt
Nam-Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
8. Trần Quý Long (2008), "Lao động nội trợ của phụ nữ nông thôn
và các yếu tố tác động", Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 6, tr. 53-65.
9. Trần Quý Long (2009), "Trẻ em và sự tham gia lao động đóng góp
thu nhập cho gia đình", Tạp chí Nghiên
cứu Gia đình và Giới, số 4, tr. 44-55.
10.UNICEF (1994), Phân tích tình hình phụ nữ và trẻ em, Hà
Nội.
11.UNICEF (2010), Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt
Nam, Hà Nội.
12.Vũ Tuấn Huy (2004), Xu hướng gia đình ngày nay (Một vài đặc điểm
từ nghiên cứu thực nghiệm tại Hải Dương), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
13.Vũ Tuấn Huy và Deborah S.
Carr (2000), "Phân công lao động nội trợ trong gia đình", Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 43-52.
No comments:
Post a Comment