Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2009). “Trẻ em và sự tham gia lao động đóng góp thu
nhập cho gia đình”. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4/2009.
1. Đặt vấn đề
Từ khi đất nước bước vào cơ chế thị trường với nhiều
thành phần kinh tế đã hình thành nên một tỷ lệ công ăn việc làm tự tạo trong
gia đình, sức lao động bao gồm sức lao động của trẻ em đã trở thành một loại
hàng hóa có giá trị cụ thể về mặt kinh tế (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Cùng với sự biến đổi kinh tế-xã hội và chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề, vai trò kinh tế của trẻ em trong gia đình cũng biến đổi theo.
Lao động trẻ em ngày càng trở nên hữu hình hơn trong cơ cấu phân công lao động
gia đình khi nó góp phần trực tiếp làm tăng thu nhập hộ gia đình (Nguyễn Thị Vân Anh và Vân Anh, 1998). Với mức sống chưa cao và thu nhập thấp như hiện nay,
sự tham gia của trẻ em vào các hoạt động kinh tế trong và ngoài gia đình là một
đòi hỏi cấp thiết (Barbara S. Mensch và cộng sự, 2000). Trẻ em ở Việt Nam có trách nhiệm trong hộ gia đình
vừa như một lực lượng lao động vừa là một nguồn cung cấp lao động trực tiếp
trong các hoạt động kinh doanh, lao động nông nghiệp của hộ gia đình và làm
thuê (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Phần lớn trẻ em làm các công việc giản đơn, tham gia
lao động ở mức độ tiền công thấp, không có trình độ chuyên môn hay kỹ năng nghề
nghiệp (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và UNICEF Việt Nam,
2008).
Tuy nhiên, thông qua quá trình lao động, trẻ em sẽ học
hỏi được những kỹ năng và những giá trị chuẩn mực theo nền văn hóa địa phương,
đồng thời các em cũng sẽ hình thành và phát triển những hành vi ứng xử tương
ứng với vai trò mà các em đang thực hiện (Đặng Bích Thuỷ, 2006). Trẻ em Việt Nam làm việc để giúp cha mẹ bằng cách
chia sẻ công việc hoặc trực tiếp đóng góp về tài chính và có thể xem như là một
cách để xây dựng lòng tin và tự trọng cho tương lai (UNICEF, 1994). Lao động trở thành điều “tự nhiên” đối với bản thân
trẻ em, cha mẹ và những người khác. Lao động từ lâu đã trở thành một chuẩn mực
đạo đức để đánh giá hành vi, nhân cách của trẻ em (Nguyễn Thị Vân Anh và Vân Anh, 1998). Các em được coi là một phần trong lực lượng lao động
và làm việc là một trong những nghĩa vụ của các em đối với gia đình và cộng
đồng. Đây cũng là một cách để các em có thể học được cách làm những công việc
mà khi các em lớn các em phải đảm đương… (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền,
1997).
Bộ luật Lao động
sửa đổi năm 2002 của Việt Nam xác định độ tuổi lao động tối thiểu là 15, trẻ em
từ 15-dưới 18 tuổi được quyền tham gia lao động giản đơn, nhưng kèm theo đó có
nhiều quy định chặt chẽ để ngăn chặn tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em,
như: không bắt buộc trẻ em làm quá 7 giờ/ngày, 42 giờ/tuần, không phải là công
việc nặng nhọc, độc hại. Theo đánh giá của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
lao động trẻ em chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế gia đình, ở những nơi pháp
luật lao động không phát huy hiệu lực. Nhiều cuộc khảo sát cấp quốc gia cho
thấy, gần 16% trẻ em trong độ tuổi 5-14 tham gia lao động, khoảng 13% tham gia
vào các hoạt động kinh tế hộ gia đình (Tổng cục Thống kê, 2006a). Trong khi đó,
theo số liệu từ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2006 thì tỷ
lệ này là 9% đối với trẻ em trong độ tuổi 6-15. Sự khác nhau giữa các tỷ lệ trẻ
em lao động theo các số liệu có thể là do thiết kế câu hỏi. Điều tra VHLSS chỉ
đề cập đến công việc ngoài gia đình là làm công ăn lương, đối với Điều tra đánh
giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2006 (MICS 3) bao gồm cả những công
việc không được trả công (Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội và UNICEF Việt Nam, 2008).
Trẻ em tham gia
lao động là một lĩnh vực nghiên cứu có tầm quan trọng, chỉ tiêu về lao động trẻ
em phản ánh tình trạng trẻ em đi làm thuê hoặc làm việc cho gia đình hoặc tự
làm thuê. Khác với các khảo sát gần đây là tìm hiểu tỷ lệ trẻ em tham gia lao
động (có thể lao động đóng góp kinh tế và lao động nội trợ trong gia đình) phân
bố trong những điều kiện cụ thể như vùng địa lý, mức sống, nơi cư trú, học vấn…
Nghiên cứu này sử dụng số liệu Điều tra gia đình Việt Nam 2006 nhằm trả lời cho
câu hỏi: những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự tham gia lao động đóng góp thu nhập
cho gia đình của trẻ em trong độ tuổi 7-17?
2. Điểm luận
Những đặc điểm
nhân khẩu học như giới tính, tuổi có tầm quan trọng trong việc giải thích số
lượng thời gian trẻ em sử dụng ở các hoạt động khác nhau, trong đó có tham gia
lao động cho gia đình. Theo cách phân công lao động truyền thống thì con gái có
trách nhiệm nhiều hơn trong các công việc nội trợ nhưng thời gian lao động ở
các hoạt động khác ít hơn con trai. Tầm quan trọng của biến số tuổi, phản ánh
khả năng tham gia lao động của trẻ em, nhìn chung một đứa trẻ càng lớn thì càng
sử dụng nhiều thời gian trong lao động (Amy Liu và Yuk Chu, 1997; Tổng cục Thống kê, 2006a). Kết quả các
cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy, trẻ em Việt Nam bắt đầu tham gia các hoạt động
kinh tế từ nhỏ. Nhóm trẻ em ở độ tuổi 15-17 có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế
cao nhất (44,7%), sau đó là độ tuổi 11-14 (16,4%), rồi đến 1,2% nhóm trẻ em ở
độ tuổi 6-10 (Tổng cục Thống kê, 2006b).
Do đời sống kinh
tế quá thấp, nhu cầu lao động trong gia đình rất lớn nên trẻ em người dân tộc
có xu hướng tham gia công việc gia đình rất sớm. Ngoài giờ học ở trường, các em
phải dành nhiều thời gian giúp đỡ gia đình. Sự phân công lao động mang tính tự
nhiên, phù hợp với giới tính và lứa tuổi. Các em đành lòng tự nguyện lao động,
trong một hoàn cảnh không cho phép có sự lựa chọn nào khác, để thực hiện trách
nhiệm, nghĩa vụ đối với gia đình. Ngay từ khi lên 8-10 tuổi các em đã bắt đầu
tham gia cắt cỏ và lấy củi, xe sợi và tập dệt vải. Đó là những công việc vượt
quá sức của các em. Các em càng lớn tuổi càng tham gia vào công việc gia đình
nhiều hơn. Những công việc này chiếm khá nhiều thời gian và tiêu hao nhiều năng
lượng của trẻ (Lâm Bá Nam,
2001). Báo cáo phát
triển Việt Nam (2004) trích dẫn số liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2002
do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và Tổng cục Thống kê tiến hành cho thấy,
13,5% trẻ từ độ tuổi 10 đến 16 tuổi làm việc trên đồng ruộng của gia đình nhưng
tỷ lệ này ở trẻ em dân tộc thiểu số cao hơn nhiều (33,5%). Số liệu khảo sát
MICS3 cho thấy, 28,4% trẻ em người dân tộc tham gia lao động so với 13,3% trẻ
em người Kinh (Tổng cục Thống kê, 2006a). Trẻ em dân tộc
thiểu số phải làm việc nhiều hơn 1,589 giờ so với trẻ em dân tộc Kinh (Amy Liu và Yuk Chu, 1997).
Học vấn của bố
mẹ không có ảnh hưởng nhiều, nhưng nghề nghiệp của bố mẹ lại có ảnh hưởng mạnh
để sử dụng thời gian của trẻ em trong lĩnh vực lao động. Những đứa trẻ có bố mẹ
làm nông nghiệp có xu hướng làm việc nhiều hơn so với những đứa trẻ mà nghề
nghiệp của bố mẹ chúng là phi nông nghiệp với thời gian 2,7 giờ (Amy Liu và Yuk Chu, 1997).
Mức sống có ảnh
hưởng đến khả năng tham gia lao động của trẻ em, những hộ gia đình nghèo cần
trẻ em làm việc để phát sinh thu nhập, do đó chi phí cơ hội cho trẻ em đến
trường thấp hơn những hộ gia đình tương đối khá giả; trẻ em hình như có nhiều
thời gian đi học hơn nếu thu nhập gia đình của chúng cao hơn (Indu Bhushan
và cộng sự, 2001). Các hộ gia
đình khá giả ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc học hành của con cái và có
xu hướng không muốn cho con mình tham gia vào lực lượng lao động cho đến khi
chúng lớn hẳn (Dominique Houghton và cộng sự, 2001). Đối với rất
nhiều hộ nghèo, sức lao động của trẻ có giá trị hơn nhiều so với việc để chúng
tới trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục không thể bù đắp được những tổn thất
về thu nhập trong ngắn hạn (Báo cáo phát triển Việt Nam, 2004). Trong nền kinh
tế thị trường, giáo dục dường như là trở nên một khoản đầu tư có giá trị nhiều
hơn trong nền kinh tế kế hoạch tập trung. Hoàn toàn có khả năng xảy ra là việc
các gia đình nghèo tận dụng sức lao động của con em mình, do vậy có thể bắt
chúng thôi học hay cắt giảm mức độ học hành của các em. Mặc dù có một bộ phận
đáng kể trẻ em thuộc các hộ giàu tham gia hoạt động kinh tế nhưng số liệu cũng
chỉ ra rằng, mức chi tiêu và thu nhập càng cao thì càng có ít trẻ em phải tham
gia hoạt động kinh tế (Indu Bhushan
và cộng sự, 2001). Thanh thiếu
niên trong những gia đình kinh tế khó khăn thường phải đi làm sớm và bước vào
thị trường lao động sớm hơn (Đặng Nguyên
Anh, 2006).
Khác nhau giữa đô thị-nông thôn có ảnh hưởng sâu sắc đến số lượng thời
gian trẻ em sử dụng trong các hoạt động khác nhau. Trẻ em ở khu vực đô thị có
xu hướng lao động ít hơn so với trẻ em nông thôn (Eric V. Edmonds, 2007; J. Desai, 1995; Tổng cục Thống kê, 2006a). Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về Việt Nam (1996),
trẻ em tham gia trong các hoạt động lao động là đặc biệt phổ biến ở nông thôn,
ở đó hầu như một phần ba trẻ em từ 6 đến 14 tuổi tham gia lao động (Dẫn theo Amy
Liu và Yuk Chu, 1997). Amy Liu và Yuk Chu (1997) cho thấy trẻ em ở đô thị lao
động ít hơn 1,304 giờ so với trẻ em ở nông thôn. Một khảo sát gần đây có kết
quả tương tự, trẻ em nông thôn tham gia các hoạt động kinh tế sớm hơn và nhiều
hơn trẻ em thành thị, trong khi có 20,4% trẻ em nông thôn tham gia hoạt động
kinh tế thì chỉ có 7,3% trẻ em thành thị phải lao động (Tổng cục Thống kê, 2006b). Theo kết quả khảo sát MICS3, tỷ lệ trẻ em 6-14 tuổi ở
nông thôn tham gia lao động là 18,3%, trong khi ở thành thị là 6,6% (Tổng cục Thống kê, 2006a).
Khác biệt vùng
cũng là một yếu tố quan trọng trong lĩnh vực lao động sản xuất của trẻ em, trẻ
em miền Bắc làm việc nhiều hơn so với miền Nam với thời gian 6,275 giờ một
tuần (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Trẻ em ở các
vùng nghèo, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung
Bộ phải lao động nhiều hơn các vùng khác (Tổng cục Thống kê, 2006a).
3. Số liệu, chiến lược phân tích, đặc điểm biến số
Nghiên
cứu này sử dụng số liệu của cuộc Điều tra gia đình Việt Nam (ĐTGĐVN) năm 2006
do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
phối hợp cùng với Tổng cục Thống kê (TCTK) và Viện Gia đình và Giới thuộc Viện
Khoa học xã hội Việt Nam tiến hành. Cuộc điều tra này nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác quốc gia giữa
Chính phủ Việt Nam
và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) 2006-2010. Thiết kế mẫu
cuộc ĐTGĐVN 2006 là một mẫu xác suất, chọn theo tầng và chùm. Các địa bàn và hộ
gia đình được chọn theo phương pháp hệ thống từ Dàn mẫu chủ của Khảo sát mức
sống hộ gia đình Việt Nam .
Mẫu của ĐTGĐVN 2006 gồm 9.300 hộ đại diện chung cả nước, khu vực thành thị/nông
thôn và 8 vùng (Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF, Viện Gia đình và Giới, 2008).
Trong
số 9.300 hộ gia đình được khảo sát, có 2.670 đại diện hộ gia đình trả lời câu
hỏi về sự tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình của trẻ em từ 7-14
tuổi, tương tự có 2.479 hộ trả lời cho trẻ em trong độ tuổi 15-17. Tổng hợp hai
mẫu này sẽ có một mẫu chung là 6199 hộ trả lời sự tham gia lao động của trẻ em
từ 7-17 tuổi. Trong số 6.199 hộ được phỏng vấn, 2.540 hộ (41%) báo cáo là có
trẻ em trong độ tuổi 7-17 tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình,
không tính lao động làm thuê và những loại hình công việc khác như nội trợ,
chăm sóc các thành viên khác trong gia đình.
Nghiên cứu này
sẽ sử dụng kỹ thuật phân tích đa biến để tìm hiểu sự ảnh hưởng của những biến
độc lập đối với biến phụ thuộc là sự tham gia lao động của trẻ em. Kỹ thuật
phân tích đa biến sẽ cho phép loại bỏ được những tác động ảo của các biến độc
lập. Thủ tục chuẩn để phân tích là mô hình hồi quy logistic, bởi vì biến phụ
thuộc được xây dựng thành một biến nhị phân với giá trị bằng 1 nếu trong gia
đình có trẻ em tham gia lao động đóng góp thu nhập và giá trị bằng 0 nếu ngược
lại.
Dựa trên những
nghiên cứu ở phần điểm luận và bổ sung thêm những yếu tố có thể ảnh hưởng,
nghiên cứu này sẽ sử dụng các biến độc lập sau đây: Các yếu tố nhân khẩu học
của trẻ em bao gồm giới tính, tuổi, học vấn, thành phần dân tộc, tình trạng đi
học; Các yếu tố gia đình: Học vấn, nghề nghiệp của bố mẹ, mức sống gia đình;
Các yếu tố kinh tế - xã hội mang tính chất vĩ mô: Nơi cư trú, vùng địa lý.
Danh sách đầy đủ
các biến độc lập được chỉ ra ở bảng 1, được trình bày trong cột đầu tiên. Tỷ lệ
trẻ em trai trong mẫu phân tích là 51,2% và nữ là 48,8% (không đưa vào bài
viết). Số trẻ em có độ tuổi 7-10 chiếm tỷ lệ thấp nhất, 16,4%; cao hơn là nhóm
15-17 tuổi, 40% và cao nhất là nhóm 11-14 tuổi, 43,7%. Trẻ em đã học xong trung
học cơ sở (THCS) chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 51,5%; 37,8% có học vấn tiểu học
(TH) và 10,7% có học vấn trung học phổ thông (THPT); có 87,2% trẻ em đang đi
học. Trẻ em người dân tộc Kinh chiếm 78,4% trong mẫu nghiên cứu.
Trong số 6.199
người trả lời về việc con cái tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình,
có 49,3% người là người bố và 50,7% là người mẹ. Do số liệu không có dữ liệu
riêng rẽ về trình độ học vấn và nghề nghiệp của bố mẹ nên biến học vấn và nghề
nghiệp của bố mẹ được sử dụng trong nghiên cứu này là biến chung. Trong một
chừng mực nhất định học vấn và nghề nghiệp của bố và mẹ có mối tương quan với
nhau và khó có thể tách riêng tác động của hai biến này. Có 32,8% bố mẹ có
trình độ học vấn ở cấp TH; 45,4% ở cấp trung học cơ sở; 15% ở cấp THPT và 6,8%
có trình độ cao đẳng, đại học. Tỷ lệ bố mẹ làm nông nghiệp là 58,9% so với
41,1% không làm nông nghiệp.
Mức sống của hộ
gia đình được chia theo năm nhóm phân vị (20%) nhưng do lọc ra những gia đình
có trẻ em từ 7 đến 17 tuổi nên đã có sự thay đổi về tỷ lệ giữa các nhóm mức
sống khác nhau. Nơi cư trú của trẻ em trong mẫu khảo sát chủ yếu là khu vực
nông thôn, 83,5%; tỷ lệ cư trú cao nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc với 21,6%,
và thấp nhất ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
4. Nội dung nghiên cứu
Kết quả phân
tích đa biến bằng thủ tục logistic ở bảng 1 cho thấy các biến số độc lập đưa
vào mô hình đã giải thích được 35% sự biến thiên của tỷ lệ trẻ em tham gia lao
động đóng góp thu nhập cho gia đình. Không có sự khác biệt giữa trẻ em trai và
trẻ em gái trong việc tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình bởi vì
tác động của biến số giới tính là nam không có ý nghĩa thống kê. Biến số tuổi
của trẻ em có tác động đến khả năng tham gia lao động của trẻ em, ở nhóm tuổi
cao hơn trẻ em có xác suất tham gia lao động cao hơn. So với xác suất 41% ban
đầu của nhóm trẻ 7-10 tuổi, trẻ em ở trong nhóm tuổi 11-14 có xác suất tham gia
lao động tăng lên 74% và tiếp tục tăng lên 87% ở nhóm 15-17 tuổi (p<0,001).
Học vấn cũng có
ảnh hưởng đến khả năng tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình của trẻ
em, so với nhóm có học vấn TH, trẻ em ở nhóm THCS và nhóm THPT có xu hướng tham
gia lao động cao hơn với hệ số exp(B) lần lượt là 1,5 (p<0,001) và 1,3
(p<0,05). Việc giải thích kết quả này có thể là do học vấn của trẻ em cao
hơn đồng nghĩa với tuổi cũng cao hơn nên khả năng các em tham gia lao động
nhiều hơn.
Sự khác nhau về
tộc người làm nổi bật địa vị bất lợi của trẻ em trong các nhóm dân tộc thiểu số
khi so sánh với nhóm dân tộc Kinh. Xác suất trẻ em dân tộc thiểu số phải làm
việc cao hơn so với trẻ em dân tộc Kinh. Khi tính đến tác động của các biến số
khác, kết quả vẫn cho thấy trẻ em là người Kinh có xác suất tham gia lao động
thấp hơn trẻ em người dân tộc khác 15 điểm phần trăm (p<0,001). Một phân
tích của UNICEF (1994) cho thấy, do dân cư sống rải rác và ít trường học nên
các gia đình và trẻ em người dân tộc khác cảm thấy làm việc nhà và tại đồng
ruộng còn dễ chịu hơn là đi học.
Trẻ em đang đi học tham gia lao
động với hệ số rất thấp (exp(B)=0,20, p<0,001), nếu một trẻ em đang đi học
thì xác suất tham gia lao động chỉ bằng 12% so với trẻ em không đi học. Có thể
việc đi học đem lại cho trẻ em một loạt hoạt động và vai trò mới chiếm nhiều
thời gian dẫn đến việc các em sẽ tham gia lao động ít hơn. Indu Bhushan và
những người khác (2001) dựa trên khảo sát mức sống dân cư cho thấy, với mọi trẻ
em, khối lượng công việc mỗi tuần giảm đi theo thời gian từ 1992-1993 đến
1997-1998 và lý do có thể là học sinh đã dành nhiều thời gian cho bài vở hơn.
Tác động của học
vấn bố mẹ cũng rõ ràng và nhất quán nhưng chỉ ở mức độ vừa phải (p<0,05),
những bố mẹ hoàn thành thêm một cấp học xác suất tham gia lao động của con cái
giảm xuống. Nghề nghiệp của bố mẹ có ảnh hưởng rõ nét hơn (p<0,001), khi trẻ
em có các điều kiện giống nhau về giới tính, tuổi, học vấn, dân tộc, cùng mức
sống và cư trú ở một vùng… nhưng nếu trong gia đình có bố hoặc mẹ làm nông
nghiệp thì trẻ em có xác suất tham gia lao động tăng lên 50% so với trẻ em
trong gia đình có bố mẹ không làm nông nghiệp.
Mức sống của gia
đình có ảnh hưởng rất rõ nét đến sự tham gia lao động của trẻ em, sự ảnh hưởng
này được khẳng định bằng ý nghĩa thống kê (p<0,001). Những gia đình có mức
sống cao hơn mức nghèo nhất thì xác suất trẻ em lao động thấp hơn và xác suất
này có xu hướng giảm dần. Cụ thể, so với nhóm nghèo nhất, hệ số trẻ em tham gia
lao động của nhóm cận nghèo là 0,9 và giảm xuống còn 0,3 ở nhóm giàu nhất. Kết
quả này cũng tương tự với nhận xét của Indu Bhushan và những người khác (2001),
trong nhóm chi tiêu năm (nhóm giàu nhất), dường như giờ đây trẻ em ít tham gia
vào lực lượng lao động và những trẻ em này dành toàn bộ thời gian để học. Trẻ
em trong nhóm chi tiêu nghèo dường như hay phải lao động hơn kể cả khi còn đang
tiếp tục học.
Bảng
1: Mô hình hồi
quy về tác động của các yếu tố đối với sự tham gia lao động đóng góp thu nhập
cho gia đình của trẻ em
Biến số
|
N
|
Hệ số
|
Hệ số
Exp(B)
|
Xác suất ước tính ban đầu
là 0.41
|
Giới
tính trẻ em
|
||||
3.171
|
-,026
|
,974
|
0,40
|
|
Tuổi trẻ em
|
||||
7-10 (ref.)
|
1.014
|
1
|
0,41
|
|
11-14
|
2.706
|
1,355
|
3,876***
|
0,73
|
15-17
|
2.479
|
2,276
|
9,740***
|
0,87
|
Học
vấn trẻ em
|
||||
Tiểu
học (ref.)
|
2.341
|
1
|
0,41
|
|
THCS
|
3.190
|
,085
|
1,567***
|
0,52
|
THPT
|
666
|
,131
|
1,363**
|
0,49
|
Dân tộc trẻ em
|
||||
Kinh + Hoa
(có=1)
|
4.862
|
-,738
|
,478***
|
0,25
|
Tình trạng đi học (có=1)
|
5.403
|
-1,588
|
,204***
|
0,12
|
Học
vấn bố mẹ
|
||||
Tiểu
học (ref.)
|
2.033
|
1
|
0,41
|
|
THCS
|
2.812
|
-,027
|
,973
|
0,40
|
THPT
|
931
|
-,242
|
,785*
|
0,35
|
Cao
đẳng, đại học
|
423
|
-,371
|
,690*
|
0,32
|
Nghề nghiệp bố
mẹ
|
||||
Nông nghiệp
(có=1)
|
3.654
|
,352
|
1,422***
|
0,50
|
Mức
sống
|
||||
Nghèo
nhất (ref.)
|
1.613
|
1
|
0,41
|
|
Cận
nghèo
|
1.426
|
-,105
|
,900
|
0,38
|
Trung
bình
|
1.254
|
-,215
|
,807*
|
0,36
|
Khá
|
1.066
|
-,489
|
,614***
|
0,30
|
Giàu
|
840
|
-,686
|
,503***
|
0,26
|
Khu
vực cư trú
|
||||
Nông
thôn (có=1)
|
4.980
|
,514
|
1,672***
|
0,54
|
Vùng
|
||||
ĐB
sông Hồng (ref.)
|
1.063
|
1
|
0,41
|
|
Miền
núi phía Bắc
|
1.342
|
-,177
|
,838
|
0,37
|
Bắc
Trung Bộ
|
762
|
-,187
|
,830
|
0,37
|
Duyên
hải NTB
|
611
|
,044
|
1,045
|
0,42
|
Tây
Nguyên
|
537
|
-,191
|
,826
|
0,36
|
Đông
|
732
|
-,460
|
,631***
|
0,30
|
ĐB
sông Cửu Long
|
1.152
|
-,871
|
,418***
|
0,23
|
Hằng số
|
,668
|
1,950***
|
0,58
|
|
N=6.199. R Square=,350. Mức
ý nghĩa: *p<0,05; **p<0,01; ***p<0,001
Ref.:
Nhóm so sánh
|
Trẻ em ở nông
thôn phải tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình nhiều hơn trẻ em
thành thị khi đã kiểm soát tác động của các biến số khác (exp(B)=1,7,
p<0,001). Nói cách khác, nếu một trẻ em chuyển đến sống ở khu vực nông thôn
thì xác suất tham gia lao động sẽ tăng lên 54% so với xác suất 41% ban đầu.
Theo J. Desai (1995), nông nghiệp là nền tảng hình thành cơ sở kinh tế của khu
vực nông thôn, và trong lúc thời vụ, ngay cả trẻ nhỏ cũng được huy động trong
những công việc đòi hỏi ít sức lực ở bên ngoài gia đình. Một bài viết khác cũng
đưa ra lập luận cho rằng với 75% dân số là nông thôn thì việc thu hút lao động
trẻ em vào các công việc đồng áng, ruộng vườn đã mang tính phổ biến, nhất là
vào thời gian các em nghỉ hè (Bùi Ngọc
Thanh, 2008); những nhận xét
đó cũng thống nhất với tình hình ở các nước đang phát triển khác (Eric V. Edmonds, 2007).
Biến số vùng địa
lý có tác động đến việc trẻ em tham gia lao động cho gia đình hay không. Những
vùng có trẻ em tham gia lao động tương đương nhau là đồng bằng sông Hồng, miền
núi phía bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, vì tác động
của những biến số này không có ý nghĩa thống kê. Điều đó cho thấy, ở những vùng
có điều kiện khó khăn, nghèo nàn thì trẻ em phải tham gia lao động nhiều hơn.
Trẻ em ở hai vùng còn lại có xác suất tham gia lao động thấp hơn so với đồng
bằng sông Hồng (p<0,001), từ xác suất 41% ban đầu nếu trẻ em cư trú ở vùng
Đông Nam Bộ sẽ giảm xuống ở mức 30% và giảm xuống còn 23% nếu cư trú ở đồng
bằng sông Cửu Long.
5. Thảo luận và kết luận
Mục đích của
nghiên cứu này là đo thực tế mức độ tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tạo
thu nhập cho gia đình của trẻ em Việt Nam và những yếu tố có thể ảnh
hưởng đến sự tham gia đó. Phân tích đa biến bằng mô hình hồi quy logistic cho
thấy một số ảnh hưởng quen thuộc như các hình thái lao động khác của trẻ em
(làm thuê, làm các việc vặt trong gia đình).
Giới tính không
có ảnh hưởng đến khả năng tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình của
trẻ em. Điều này cho thấy trong tất cả các loại hình công việc đều có sự tham
gia của trẻ em trai và trẻ em gái. Cũng có thể, quy mô hộ gia đình ở Việt Nam
ngày càng thu hẹp hơn, do đó trẻ em phải tham gia lao động cho gia đình dù bất
luận giới tính là gì.
Nhìn chung, tuổi
của trẻ em càng cao thì xác suất phải tham gia lao động đóng góp thu nhập cho
gia đình càng cao. Học vấn có tác động tương tự, trẻ em ở nhóm học vấn cao hơn
có xác suất tham gia lao động cao hơn, điều này một mặt phản ánh sự trưởng
thành về mặt sinh học, thể chất, mặt khác phản ánh khía cạnh trưởng thành về
văn hóa, nhân cách của trẻ em.
Xét riêng những
trẻ em đang đi học, nhóm này có xác suất tham gia lao động rất thấp. Thực tế
này cho thấy, mặc dù chi phí cơ hội bị mất do trẻ em không làm việc mà đi học
nhưng gia đình và bản thân các em vẫn nhận thức được giáo dục là một sự đầu tư
có hiệu quả, là một phương thức giảm nghèo vì thế đã tích cực đầu tư vào nguồn
vốn nhân lực của trẻ em. Ngoài ra, các nguyện vọng mong muốn con cái có học vấn
cao hơn được đan xen với các hy vọng về sự di động xã hội đi lên để có một cuộc
sống ổn định hơn có vẻ là một sự giải thích cho việc trẻ em đang đi học ít tham
gia lao động.
Kiểm nghiệm về
tác động của yếu tố dân tộc đối với sự tham gia lao động của trẻ em được khẳng
định, trẻ em người dân tộc có xu hướng lao động đóng góp thu nhập cho gia đình
cao hơn trẻ em người Kinh. Kết quả này một lần nữa cho thấy sự bất lợi của trẻ
em ở gia đình người dân tộc thường gặp những khó khăn về kinh tế và bị dồn đẩy
vào sự tham gia lao động sớm hơn.
Chúng
ta đã thấy rằng học vấn và nghề nghiệp của bố mẹ nói chung là những biến giải
thích quan trọng. Khi bố mẹ có trình độ học vấn cao hơn, con cái có xác suất
tham gia lao động giảm. Bố mẹ làm nông nghiệp thì trẻ em có xu hướng tham gia
lao động cao hơn nhóm bố mẹ không làm nông nghiệp. Điều này có thể là do trong
sản xuất nông nghiệp, ngoài tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai ra còn có sức
lao động của con người. Để học được những kỹ năng liên quan đến sản xuất nông
nghiệp không đòi hỏi sự đào tạo chính thức, mà chỉ cần sự quan sát và thực
hành. Do đó trẻ em có thể bắt đầu tham gia sản xuất nông nghiệp khi ở lứa tuổi
còn rất sớm.
Kiểm định về mức
sống đối với khả năng tham gia lao động của trẻ em tỏ ra tương đối mạnh, những
gia đình có mức sống cao hơn thì xác suất trẻ em phải lao động thấp hơn. Mặc dù
thực tế có một bộ phận trẻ em thuộc các hộ khá giàu tham gia hoạt động kinh tế
nhưng số liệu phân tích chỉ ra rằng, mức sống càng cao càng ít có trẻ em phải
tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình.
Khác biệt giữa
thành thị và nông thôn cũng được khẳng định qua phân tích số liệu ĐTGĐVN 2006,
trẻ em cư trú ở thành thị có xu hướng ít phải tham gia lao động đóng góp thu
nhập cho gia đình ít hơn trẻ em ở khu vực nông thôn. Điều này hàm ý rằng trẻ em
ở khu vực thành thị thường được yêu cầu tập trung cho việc học tập hơn, mặt
khác nó thể hiện sự sẵn có việc làm ở khu vực nông thôn hơn. Kinh tế hộ gia
đình đã tồn tại từ rất lâu ở nông thôn Việt Nam . Trước đây chức năng sản xuất
của gia đình chỉ thuần tuý là sản xuất nhỏ lẻ mang bản chất của tự cung tự cấp
là chính. Ngày nay với việc phát triển của kinh tế thị trường, việc sản xuất ở
hộ gia đình không còn mang tính tự cung tự cấp mà sản xuất nhằm hướng đến thị
trường do đó nó yêu cầu một lực lượng đông đảo người lao động tham gia, trong
đó có trẻ em.
Cũng có những
chênh lệch có ý nghĩa thống kê, mặc dù không đồng nhất trong xác suất trẻ em
tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình giữa các vùng địa lý. Đồng
bằng sông Hồng và những vùng khác được ghi nhận là nơi có trẻ em tham gia lao
động cao hơn hai vùng Đông Nam
Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Hồng, là nơi tập trung sản xuất
nông nghiệp và nhiều ngành nghề thủ công nên có khả năng thu hút nhiều trẻ em
tham gia. Các vùng khác, do điều kiện kinh tế khó khăn hơn nên trẻ em phải tham
gia lao động tìm kiếm thu nhập cùng với gia đình.
Điều quan trọng
cần phải được thừa nhận rằng, ở một nước như Việt Nam rõ ràng là tất cả các
thành viên của hộ gia đình trong khả năng có thể đều đóng góp công sức nào đó
cho hoạt động kinh tế gia đình, do đó tham gia lao động đóng góp thu nhập cho
gia đình của trẻ em là một thực tế không thể phủ nhận. Đây là chuẩn mực của
lòng hiếu thảo, là một phương thức gia tăng giá trị nhân cách, phản ánh sức
mạnh của truyền thống đã bắt rễ sâu xa trong một nền văn hóa phương Đông. Bên
cạnh đó, nó cũng thể hiện là một nhân tố kinh tế, gia đình hay bố mẹ trông đợi
và có quyền được trợ giúp, chia sẻ từ con cái. Nhưng khi trẻ em làm việc quá
nhiều giờ và trước tuổi trưởng thành sẽ làm giảm sức khỏe và cản trở sự phát
triển các kỹ năng xã hội của trẻ em, làm giảm năng lực kiếm sống khi trưởng
thành và kéo dài mãi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Nếu làm những công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hay khi công việc trùng với giờ chơi và giờ học
thì loại hình này có thể được phân loại như một hình thức bóc lột (UNICEF, 1994). Do đó điều cần
thiết là gia đình và bản thân trẻ em phải điều tiết một cách hài hoà, tránh
xung đột giữa những vai trò và quyền lợi khác nhau của trẻ em, đặc biệt là cần
phải nâng cao vị thế của trẻ em ở những nhóm yếu thế.
Tài
liệu tham khảo
8. Đặng
Nguyên Anh (2006), Tình hình lao động và việc làm của thanh niên Việt
Nam, Bộ Y tế, UN, và Sida, Hà Nội.
9. Dominique
Houghton, Jonathan Houghton và Nguyễn Phong (2001), Mức sống trong thời
kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
10. Eric
V. Edmonds (2007), Child Labor, Department of Economics at
Darthmouth College. Holland: Institute for the Study of Labor.
11. Indu
Bhushan, Erik Bloom, Nguyễn Minh Thắng và Nguyễn Hải Hữu (2001), Vốn
nhân lực của người nghèo ở Việt Nam: Tình hình và các lựa chọn về chính sách,
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
13. Joachim
Theis và Hoàng Thị Huyền (1997), Từ việc nhà đến khai thác vàng: Lao
động trẻ em ở nông thôn Việt Nam, Save the Children, Hà Nội.
14. Lâm
Bá Nam (2001), Trẻ em và gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam-Thực
trạng và nhu cầu trợ giúp (Nghiên cứu trường hợp 10 nhóm dân tộc thiểu số),
DRCC, CEMMA và UNICEF, Hà Nội.
15. Nguyễn
Thị Vân Anh và Vân Anh (1998), "Sự thay đổi cơ cấu ngành nghề và việc chăm
sóc, giáo dục trẻ em: Khảo sát tại một xã ven đô", Tạp chí Xã hội
học, số 4, tr. 56-65.
16. Tổng
cục Thống kê (2006a), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ
Việt Nam 2006 (MICS 3), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
17. Tổng
cục Thống kê (2006b), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
năm 2006, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
No comments:
Post a Comment