Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2019). Nhập học của trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo. Trần Quý Long. Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo tham gia học
đường sẽ được thúc đẩy sự phát triển
tình cảm cũng như các kỹ năng về ngôn ngữ, nhận thức và thể lực. Chính những kỹ
năng tiếp thu được qua các chương trình chăm sóc giáo dục ở giai đoạn mẫu giáo
sẽ là nền tảng cho hoạt động học tập sau này của trẻ em. Những lợi ích rộng lớn
hơn cho xã hội của giáo dục trước tiểu học có thể còn bao gồm tăng năng suất và
thu nhập, cải thiện sức khỏe và các cơ hội bình đẳng hơn (UNESCO, 2007). Các chương
trình mẫu giáo và giáo dục tiền học đường tập trung hơn vào việc hòa nhập trẻ
em vào xã hội và môi trường học tập. Chương trình tiền học đường có mục đích cụ
thể là tạo ra một chương trình chuẩn bị để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em
vào học tiểu học. Mục đích là làm cho những dịch vụ này phổ biến hơn cho càng
nhiều trẻ em càng tốt và cung cấp các cơ hội bổ sung về phát triển xã hội và
giáo dục ngoài gia đình (Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Nhập học giáo dục mầm non (GDMN) ở trong bất kỳ chương trình học nào dù chính thức hay
không chính thức đều rất quan trọng. Nhập học là yếu tố cơ bản nhất biểu hiện của sự tham gia học đường và nó
cũng là chỉ số dễ đo nhất của tiến độ đạt được phổ cập giáo dục mầm non. Tỷ lệ
nhập học đúng tuổi (NER) được sử dụng để đánh giá các mức độ tham gia vào
chương trình chăm sóc giáo dục mầm non. Tỷ lệ nhập học ròng chỉ xem xét những
trẻ em đã nhập học thuộc độ tuổi chính thức học một bậc học nào đó mà không xét
đến việc trẻ em ít tuổi hơn hoặc nhiều tuổi hơn cũng được nhập học. Nghiên cứu sử dụng tỷ lệ nhập học đúng tuổi nhằm xem xét
những trẻ em đang nhập học
mẫu giáo nằm trong khoảng tuổi 3-5 mà không xét đến việc trẻ em ít tuổi hơn hay nhiều tuổi
hơn cũng được nhập học mẫu giáo, vì thế nó không thể vượt quá 100%. Với tư cách là một
phương tiện đo mức độ trẻ em trong một độ tuổi chính thức gắn với một cấp học
nhất định, NER có thể gần như là một chỉ số của chất lượng học đường.
Nghiên cứu về giáo
dục mầm non đã được tiến hành ở Việt Nam trong những năm qua với quy mô và cấp
độ khác nhau. Tùy theo mục đích của các cuộc nghiên cứu mà số liệu thu thập,
phân tích về chương trình chăm sóc hay thực trạng các cơ sở chăm sóc trẻ em…
Nhìn chung, các nghiên cứu đều có chung một nhận xét, tỉ
lệ trẻ em đến trường mầm non vẫn chủ yếu tập trung ở lứa tuổi mẫu giáo, trong
đó tỉ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi là cao nhất (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2003).
Một báo cáo tham khảo tài liệu của Vụ Giáo dục mầm non năm học 2007-2008 cho
thấy, khoảng 71% trẻ em từ 3-5 tuổi đi học ở các nhà trẻ hoặc ở các trường mẫu
giáo (UNICEF Việt Nam, 2008). Còn số liệu của Điều tra đa mục tiêu về phụ nữ và trẻ
em (MICS) năm 2006 ước tính tổng thể chỉ có 57,1% trẻ em ở độ tuổi từ 36-59
tháng là đi học mẫu giáo/ nhà trẻ ưu tiên cho trẻ 5 tuổi (Tổng cục Thống kê, 2006).
Trên phạm vi toàn
quốc, không có sự phân biệt giới đáng kể về khía cạnh cơ hội tiếp cận GDMN giữa
trẻ em trai và trẻ em gái ở các nhà trẻ và trường mẫu giáo (Nguyễn Văn Hùng, 2005). Bình đẳng giới trong giáo dục trẻ em không ngừng được
cải thiện. Học sinh nam, nữ ở mọi loại trường và mọi cấp học đều học chung một
lớp, chung một giáo trình với các điều kiện học tập, học bổng, trợ cấp như
nhau. Về cơ bản, trong giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông đã đạt được bình
đẳng giới (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội,
2008).
Trình độ giáo dục
của người mẹ có ảnh hưởng đến việc đứa trẻ tham gia học mầm non trước khi bước
vào lớp một (Nguyễn Văn Hùng, 2005). Điều tra nhân khẩu học và sức khỏe năm 2002 cho biết,
trong số phụ nữ có con dưới 6 tuổi, những người có trình độ học vấn cao hơn
thường gửi con vào nhà trẻ/mẫu giáo nhiều hơn phụ nữ có trình độ học vấn thấp
hoặc phụ nữ chưa đi học. Phụ nữ học vấn thấp thường giao cho chị gái, anh trai
đứa trẻ hoặc người thân khác trông nom khi người mẹ đi làm (Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em,
2003).
Liên quan đến các
yếu tố khác của người mẹ, Điều tra nhân khẩu học và sức khỏe năm 2002 cho thấy,
chỉ có 23% trẻ em có mẹ đi làm tham gia các loại hình giáo dục mầm non, trong
đó ở thành thị là 40,9% và ở nông thôn là 19,5%. Kết quả này hàm ý rằng, phụ nữ
không đi làm thì tỷ lệ trẻ em không tham gia các lớp học mầm non còn thấp hơn
nhiều (Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em,
2003). Nghề
nghiệp của bố mẹ cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tuổi bắt đầu đi
học của trẻ em, với bố mẹ là nông nghiệp và nghề tự do thì trẻ có xu hướng đi
học muộn hơn, ngược lại, trẻ em có bố mẹ là công chức viên chức, kinh doanh
dịch vụ và công nhân thì thường bắt đầu đi học sớm hơn, trong độ tuổi từ 1-2 (Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 2008).
Khả năng kinh tế
của gia đình có mối liên hệ với việc tiếp cận giáo dục mầm non của trẻ em. Tỷ lệ tham gia vào các chương
trình trước tiểu học của trẻ em thuộc các gia đình khá giả cao hơn so với trẻ
em thuộc các gia đình nghèo. Những khác biệt lớn nhất về tỷ lệ tham dự giữa những
trẻ em thuộc các gia đình giàu và nghèo có thể thấy ở Cộng
hòa Đôminica, Mônđôva, và Việt Nam. Các
chi phí trực tiếp và gián tiếp của các hộ gia đình bao gồm cả việc trẻ em phải
lao động để phụ thêm thu nhập cho gia đình và học phí ở các cơ sở chăm sóc GDMN
vẫn là một trở ngại chính đối với việc tiếp cận học sớm và các chương trình học
tiếp theo của trẻ em nghèo ở nhiều quốc gia (UNESCO, 2007). Kết
quả điều tra 10 huyện nghèo năm 2001 cho thấy sự chênh lệch giữa các nhóm thu
nhập rất lớn trong tỷ lệ đi học mẫu giáo, 23,02% của nhóm 1 so với 66% của nhóm
5. Nhóm nghèo nhất có tỷ lệ tiếp cận mẫu giáo thấp nhất và tình trạng này cũng
đúng với các nhóm trẻ em dân tộc thiểu số (Nguyễn Văn Hùng, 2005), hơn 80% trẻ em ở các gia đình khá giả hơn được đi học
mẫu giáo (Tổng cục Thống kê, 2006). Tuy nhiên, nghiên cứu của Plan (2008) nhận xét rằng,
trẻ em chưa được tiếp cận sớm với giáo dục mầm non không phải vì lý do kinh tế
là chính mà là do nhận thức của người dân và một phần do chưa có cơ sở vật chất
để trẻ em có thể được đến trường (Plan Việt Nam, 2008).
Mặc dù Chính phủ đã
đạt được thành công lớn trong việc tăng tỷ lệ trẻ 5 tuổi tham gia giáo dục mầm
non, song có sự chênh lệch giữa các nhóm, tỉnh và vùng, đặc biệt tỷ lệ này rất
thấp ở các nhóm, tỉnh, vùng khó khăn và đối với trẻ em 5 tuổi chuẩn bị bước vào
lớp 1. Phạm vi bao quát lớn nhất là ở vùng thành thị và vùng có điều kiện kinh
tế khá và thấp nhất là đối với trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em thuộc gia đình
có thu nhập thấp và trẻ em vùng khó khăn, đáng chú ý là ở đồng bằng sông Cửu
Long, Tây Nguyên (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2003).
Nghiên cứu sử dụng số liệu từ
cuộc Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ Việt Nam lần thứ 3 vào
năm 2006 (MICS 3) và lần thứ 4 vào năm 2011 (MICS 4). Đây là cuộc điều tra lặp
lại được thiết kế nhằm cung cấp các ước lượng tin cậy cho nhiều chỉ tiêu phản
ánh tình hình trẻ em và phụ nữ ở cấp quốc gia, thành thị và nông thôn và 6 vùng
ở Việt Nam.
Mẫu điều tra MICS 3 đã được chọn từ Tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 1999 với 250 địa bàn được thực hiện ở 8 vùng và 61 tỉnh/thành trên
cả nước. Tiếp theo, MICS 3 chọn 8.356 hộ gia đình để phỏng vấn, trong đó 8.355
hộ gia đình đã được phỏng vấn thành công, do đó tỷ lệ trả lời của hộ gia đình
là gần 100%. Trong các hộ gia đình được phỏng vấn, có 10.063 phụ nữ 15-49 tuổi
và 9.347 phụ nữ được phỏng vấn thành công, chiếm tỷ lệ 94,1%. Có 2.707 trẻ em
dưới 5 tuổi được liệt kê trong danh sách hộ gia đình, trong đó có 2.680 trẻ
được hoàn thành bảng hỏi với tỷ lệ trả lời tương ứng 99% (Tổng cục Thống kê, 2006).
Mẫu điều tra MICS 4 bao gồm 12.000 hộ gia đình đã được
chọn dựa trên các địa bàn của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Trong số
những hộ gia đình được chọn, 11.642 hộ gia đình đã có mặt trong thời gian điều
tra và 11.614 hộ gia đình đã được phỏng vấn thành công, đạt tỷ lệ hộ trả lời
99,8%. Trong số những hộ gia đình được phỏng vấn có 12.115 phụ nữ có độ tuổi từ
15-49, trong đó 11.663 phụ nữ được phỏng vấn thành công. Có 3.729 trẻ em dưới 5
tuổi được liệt kê trong bảng câu hỏi hộ gia đình và 3.678 trường hợp đã được
phỏng vấn thành công thông qua người mẹ hoặc người chăm sóc chính với tỷ lệ
tương ứng là 98,6% (Tổng cục Thống kê, 2011b).
4. Thực trạng nhập học mẫu giáo của trẻ em
Các hoạt động ở trường mẫu giáo nhằm giúp chuẩn bị cho
trẻ em sẵn sàng bước vào lớp một sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục không
những ở cấp tiểu học mà còn ở các cấp học cao hơn. Hai cuộc điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và
phụ nữ Việt Nam năm 2006 (MICS 3) và năm 2011 (MICS 4) cho thấy, tỷ lệ
đi học mẫu giáo của trẻ em từ 36-59 tháng tuổi là 57,1% vào năm 2006, tỷ lệ này
đã tăng lên 71,9% sau 5 năm vào năm 2011. Tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em giữa
hai kỳ khảo sát đã tăng lên 20,2 điểm phần trăm. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, trong năm học 2012 - 2013, toàn quốc có 13.741
trường mầm non, trong đó công lập là 12.098 trường. Tỷ lệ huy động trẻ mầm non
đến trường ở tất cả các độ tuổi đều tăng so với năm học trước, trong đó trẻ nhà
trẻ đạt tỷ lệ 23%; trẻ mẫu giáo đạt tỷ lệ 86,5%. Riêng trẻ mẫu giáo năm tuổi
đến trường đạt tỷ lệ 99,7%, tăng 1,1% so với năm học trước (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2013).
Bảng
1: Đi học mẫu giáo của trẻ em 3-5 tuổi ở một số quốc
gia và Việt Nam (2010)
Quốc gia
|
GNP
|
GER
|
NER
|
Hàn
Quốc
|
19.890
|
119
|
85
|
Đức
|
43.110
|
114
|
---
|
Pháp
|
42.390
|
109
|
100
|
Thái
Lan
|
4.150
|
100
|
93
|
Nhật
Bản
|
41.850
|
88
|
88
|
Việt
|
1.160
|
82
|
65
|
Mỹ
|
47.390
|
69
|
64
|
7.760
|
67
|
58
|
|
Ấn
Độ
|
1.330
|
55
|
---
|
Trung
Quốc
|
4.270
|
54
|
---
|
Philippines
|
2.060
|
51
|
39
|
Inđônêxia
|
2.500
|
43
|
31
|
Lào
|
1.050
|
22
|
21
|
Cămpuchia
|
750
|
13
|
13
|
---
|
10
|
10
|
Ghi chú: --- không có số liệu
Nguồn: UNESCO (2012).
Mặc dù Nhà nước vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng và cải thiện các chương trình giáo dục mầm non, song một môi trường chính sách thuận lợi hơn đang được hình thành. Nhà nước có thể giúp hình thành môi trường này bằng cách đảm bảo có đầy đủ nguồn lực, bao gồm cả ngân sách công. Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chính sách quốc gia vững chắc, tăng cường điều phối hoạt động của các ngành và các đối tượng có liên quan, giám sát và kiểm soát chất lượng và phối hợp các nỗ lực để tiếp cận trẻ em thiệt thòi và những trẻ em ít có cơ hội tiếp cận với giáo dục mầm non.
Bảng 1 minh họa cho đánh giá chung về những nỗ lực của
Việt Nam trong việc mở rộng sự tiếp cận giáo dục mầm non cho trẻ em khi so sánh
với một số quốc gia khác. Chúng ta có thể ghi nhận một thành tựu khả quan của
Việt Nam khi so với các quốc gia có mức tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu
người cao hơn nhưng những tỷ lệ nhập học của trẻ em trong độ tuổi mầm non không
nhiều hơn Việt Nam, thậm chí ở một số nước còn thấp hơn. Tỷ lệ nhập học ròng (NER)
của Việt Nam chỉ thấp sau Thái Lan ở khu Đông Nam Á, trong khi GNP của Việt Nam
lại đứng thứ 5.
Khác biệt giới
Tỷ lệ đi học mẫu
giáo của trẻ em gái cao hơn một chút so với trẻ em trai và khoảng cách này được rút ngắn giữa hai cuộc khảo sát
MICS. Nếu như ở MICS 3, chênh lệch giữa nhóm nữ và nam trong tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em khoảng 8
điểm phần trăm thì ở MICS 4 chỉ còn 2,3 điểm phần trăm. Như vậy, ở giai đoạn
trước tiểu học hầu như không có sự khác biệt giới trong việc tiếp cận giáo dục
của trẻ em. Tham gia các chương trình học mẫu giáo có thể giảm bớt bất bình
đẳng giới ở bậc học cao hơn, bởi vì trẻ em gái tham gia vào các chương trình
này có nhiều khả năng đi học đúng độ tuổi và hoàn thành giáo dục tiểu học hơn.
Nơi cư trú
Tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo ở khu vực thành thị hầu như
không có sự tiến triển giữa hai đợt khảo sát. Ngược lại, tỷ lệ trẻ em ở khu vực
nông thôn có sự tham gia đi học mẫu giáo tăng lên đáng kể so với đợt khảo sát
năm 2006, từ 51,4% lên mức 70,5% (tăng gần 20 điểm phần trăm). Sự tăng lên
trong tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em ở khu vực nông thôn đã góp phần làm cho
khoảng cách được thu hẹp lại khá gần so với khu vực đô thị. Chênh lệch giữa hai
khu vực trong tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em giảm từ 23,3 xuống còn 5,3 điểm
phần trăm, 70,5% so với 75,8%.
Biểu đồ 1:
Tỷ lệ trẻ em 3-5 tuổi đi học mẫu giáo chia theo vùng
Nguồn: Điều tra đánh giá các mục tiêu
trẻ em và phụ nữ, 2006 và 2011.
Có một sự chênh lệch về vị trí địa lý rất lớn trong tỷ lệ
tiếp cận giáo dục mẫu giáo
của trẻ em giữa các vùng
(Biểu đồ 1). Tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em ở MICS 4 được cho thấy là cao
nhất ở hai vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và trung du và miền núi phía bắc (TD&MNPB), khoảng 90%.
Trong khi đó tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là thấp nhất, 47,2%, thấp
hơn so với hai vùng cao nhất khoảng 43 điểm phần trăm. Sở dĩ vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo cao là do giữa hai
thời điểm khảo sát, tỷ lệ này tăng vọt 43,2 điểm phần trăm từ 46% lên 89,2%. Các
vùng khác cũng có sự thay đổi về tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em giữa hai thời
điểm khảo sát nhưng với mức độ vừa phải, thậm chí hầu như không thay đổi ở vùng
Bắc Trung Bộ
và duyên hải miền Trung (BTB&DHMT).
Sự khác biệt về tỷ
lệ đi học mẫu giáo giữa các vùng là vấn đề khá phức tạp. ‘Thái độ kỷ luật’
là đặc trưng của đa số những người sinh sống ở một số vùng, cả nông thôn lẫn
thành thị. Loại thái độ này cho thấy mối quan tâm của họ tới tương lai như thế
nào - người dân nghĩ tới tương lai của con em ngay từ khi còn ở tuổi ấu thơ -
và tính kỷ luật được duy trì trong suốt hành trình học vấn. Đối với một số gia
đình, tính kỷ luật học đường thể hiện trước tiên bằng việc ghi danh vào học
đường được đánh dấu bằng một thời kỳ trước tiểu học. Kỷ luật học đường được thể
hiện bằng cách cho trẻ em được tiếp cận với giáo dục sớm, đảm bảo duy trì hành
trình học đường của trẻ em. Những vùng có thái độ ‘kỷ luật’ là những vùng đã
đạt những thành công trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, các tư tưởng tập thể và
các giá trị của giáo dục đi vào nội tâm ở mức tối đa và thái độ với học đường
là những nét đặc trưng, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin,
2001).
Thành phần dân tộc
Biểu đồ 2 trình bày kết quả khảo sát tỷ lệ nhập học mẫu
giáo của trẻ em 36-59 tháng tuổi theo thành phần dân tộc từ hai cuộc khảo sát.
Trẻ em là người Kinh có tỷ lệ đi học mẫu giáo cao hơn trẻ em dân tộc thiểu số ở
cả hai thời điểm khảo sát, 60,9% so với 39,6% (MICS 3) và 72,6% so với 67,5%
(MICS 4). Chênh lệch giữa nhóm người Kinh và nhóm dân tộc thiểu số trong tỷ lệ
đi học mẫu giáo của trẻ em tại hai thời điểm khảo sát là 21,3 và 5,1 điểm phần
trăm. Qua đó cho thấy, khoảng cách chênh lệch giữa hai nhóm dân tộc trong tỷ lệ
đi học mẫu giáo của trẻ em đã được rút ngắn nhưng vẫn duy trì khoảng cách một
cách đáng kể.
Biểu đồ 2: Trẻ em 3-5 tuổi đi học mẫu giáo chia theo thành phần dân tộc
Nguồn: Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, 2006 và 2011.
Các nhóm dân tộc
thiểu số nhiều nhưng nói chung không đông, gắn bó lâu đời về mặt địa lý và ở
những vùng đôi khi hẻo lánh, rất gắn bó về văn hóa và ngôn ngữ, trong phân công
lao động của họ trẻ em có những nhiệm vụ đặc trưng. Mỗi nhóm là một thực thể
văn hóa trong đó các thành viên đều chăm lo bảo vệ, bảo tồn. Tất cả điều đó
giải thích cho chúng ta vì sao những tình cảm quốc gia, trong đó có cả vấn đề
đi học lại khó thấm nhuần. Mặc dù các cấp chính quyền đã có nhiều cố gắng đề
hòa nhập các nhóm dân tộc thiểu số này vào xu thế chung, kể cả việc miễn học
phí cũng như việc lập các trường nội trú, nhưng việc đi học vẫn ở mức thấp. Mối
quan tâm gìn giữ phương thức sản xuất và các định hướng văn hóa đã duy trì thái
độ né tránh giáo dục của các nhóm dân tộc thiểu số (Nolwen Henaff và Jean Yves Martin,
2001). Thêm vào đó,
việc không có một chương trình giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ, ít nhất như một phần
của các chương trình học trước của trẻ em ở các lớp mẫu giáo cũng là một yếu tố
khiến trẻ em dân tộc thiểu số không muốn đến trường (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002). Đối với hầu hết trẻ em dân tộc thiểu số, trường mẫu
giáo giống như là môi trường nước ngoài và khó hiểu (UNICEF Việt Nam, 2008).
Học vấn của người mẹ
Trình độ học vấn của người mẹ đóng vai trò quyết định
trong việc cho con đi học mẫu giáo, và người mẹ ở nhóm học vấn cao hơn thì con cái được đi
học với tỷ lệ cao hơn được thể ở cả hai đợt khảo sát MICS (Biểu đồ 3). Tỷ lệ đi
học mẫu giáo của trẻ em trong nhóm mẹ không có bằng cấp ở MICS 4 là 38,4% và ở
nhóm có mẹ học hết tiểu học là 53,3%. Ngược lại, tỷ lệ nhập học mẫu giáo của
trẻ em có mẹ học hết trung học cơ sở là 73,8% và ở nhóm mẹ có học vấn từ trung
học phổ thông trở lên là 88,4%. Tỷ số chênh lệch giữa hai nhóm trẻ em đi học
mẫu giáo có mẹ ở nhóm có trình độ học vấn cao nhất và thấp nhất là 2,3 lần.
Điều này hàm ý rằng, phụ nữ có học vấn cao thường có nghề nghiệp đa dạng, do đó
nó góp phần vào xu hướng chuyển trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ em từ phía
gia đình sang các thiết chế xã hội khác.
Biểu đồ 3: Trẻ em 3-5 tuổi học mẫu giáo chia theo học vấn mẹ
Nguồn:
Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ,
2006 và 2011.
Kết quả phân tích 3
biến bằng số liệu MICS 4 ở bảng 2 cho thấy, học vấn của người mẹ vẫn là yếu tố có mối
quan hệ với việc nhập học mẫu giáo của trẻ em khi xét theo yếu tố nơi cư trú và
thành phần dân tộc. Đối với khu vực thành thị, chỉ có 10% trẻ em 36-59 tháng
tuổi được nhập học mẫu giáo ở nhóm người mẹ không có bằng cấp, tỷ lệ này ở nhóm
tiểu học là 49%, nhóm trung học cơ sở (THCS) là 70,6% và ở nhóm trung học phổ thông trở lên (THPT+) là 88,6%.
Bảng 2: Trẻ em đi học mẫu giáo chia theo học vấn mẹ và nơi cư trú, dân tộc
(%)
Không bằng cấp
|
Tiểu học
|
THCS
|
THPT+
|
Chung
|
|
Thành thị***
|
10,0
|
49,0
|
70,6
|
88,6
|
75,5
|
Nông thôn***
|
41,4
|
54,2
|
74,4
|
87,9
|
70,5
|
DTTS***
|
49,2
|
70,0
|
80,0
|
92,0
|
67,8
|
Kinh***
|
17,6
|
48,9
|
73,3
|
88,2
|
72,5
|
Ghi chú: Mức ý nghĩa thống kê: *** p<0,001.
Nguồn: Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ,
2011.
Tương tự, có 41,4%
trẻ em 36-59 tháng tuổi được nhập học mẫu giáo trong nhóm người mẹ nông thôn
không có bằng cấp. Tỷ lệ này tăng lên 33 điểm phần trăm ở nhóm người mẹ học
xong THCS (74,4%) và đạt mức 87,9% ở nhóm người mẹ có
học vấn từ THPT trở lên. Đối
với yếu tố dân tộc, kết quả phân tích cho thấy người mẹ có học vấn cao hơn thì
tỷ lệ trẻ em 36-59 tháng tuổi nhập học mẫu giáo cao hơn ở cả hai nhóm dân tộc
Kinh và dân tộc thiểu số (DTTS).
Điều kiện sống của gia đình
Điều kiện sống của gia đình có mối quan hệ với khả năng
đi học mẫu giáo của trẻ em và mối quan hệ này là đồng biến. Trẻ em trong gia
đình có mức sống khá giả hơn có tỷ lệ đi học mẫu giáo cao hơn, ngược lại tỷ lệ
đi học mẫu giáo của trẻ em thấp hơn trong gia đình có mức sống thấp hơn ở cả
hai cuộc khảo sát. Theo kết quả khảo sát, trẻ em đi học mẫu giáo ở MICS 3 của
nhóm có mức sống thấp nhất và nhóm có mức sống cao nhất lần lượt là 35,7% và
80,7%. Tương tự, tỷ lệ trẻ em trong gia đình thuộc nhóm giàu nhất đi học mẫu
giáo với tỷ lệ rất cao ở MICS 4, gần 91%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm trẻ em
có mức sống nghèo nhất là 58,8% (Biểu đồ 4).
Kết quả phân tích còn cho thấy, sự tham gia đi học mẫu
giáo của trẻ em trong gia đình nghèo nhất đã được cải thiện, sau 5 năm tỷ lệ đi
học của trẻ em thuộc nhóm nghèo nhất đã tăng từ 35,7% lên 58,8%. Vì thế, chênh
lệch trong tỷ lệ đi học mẫu giáo giữa hai nhóm có mức sống giàu nhất và nghèo
nhất giảm từ 45 điểm phần trăm xuống 32 điểm phần trăm giữa hai đợt khảo sát.
Biểu đồ 4: Trẻ em 3-5 tuổi đi học mẫu giáo chia theo mức sống
Nguồn:
Điều
tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, 2006 và 2011.
Phân tích ba
biến ở bảng
3 làm rõ hơn về sự bất lợi mà trẻ em ở những gia đình có
mức sống thấp gặp phải khi tiếp cận dịch vụ GDMN. Kết quả phân tích MICS 4 cho
thấy, trẻ em trong những gia đình có mức sống khá hơn có tỷ lệ được tiếp cận
với mẫu giáo cao hơn, cho dù là sống ở khu vực thành thị hay nông thôn, kiểm
định thống kê cho thấy mối quan hệ này rất có ý nghĩa. Cụ thể, trẻ em 36-59
tháng tuổi trong gia đình có mức sống nghèo nhất ở khu vực thành thị được nhập
học mẫu giáo chỉ là 35,3%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm có mức sống cao nhất là
91,2%. Tương tự, hai tỷ lệ này ở khu vực nông thôn lần lượt là 60,1% và 88,9%.
Bảng 3: Nhập học
mẫu giáo của trẻ em chia theo mức sống và nơi cư trú
(%)
Nghèo nhất
|
Cận nghèo
|
Trung bình
|
Khá giàu
|
Giàu nhất
|
Chung
|
|
Thành thị ***
|
35,3
|
50,0
|
58,7
|
69,6
|
91,2
|
75,6
|
Nông thôn***
|
60,1
|
64,6
|
76,2
|
80,4
|
88,9
|
70,5
|
Ghi chú: Mức ý nghĩa thống kê: *** p<0,001.
Nguồn: Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, 2011.
Nguyên lý cơ bản để giải thích tỷ lệ trẻ
em đi học ở mẫu
giáo không đồng đều dựa vào yếu tố
mức sống là một số gia đình có khả năng chi trả nhiều hơn cho việc đi học của
con cái
so với các gia đình khác. Các chi phí đã tăng lên đáng kể
đối với tất cả các bậc học trong đó có giáo dục mầm non. Cũng như các bậc học
phổ thông, giáo dục là không miễn phí ở bậc học này và mức học phí chính thức
do chính quyền địa phương ban hành. Tuy nhiên, trên thực tế,
học phí chỉ là một phần chi phí bằng tiền liên quan đến học tập mà gia đình
phải đóng vì học sinh được yêu cầu phải đóng góp rất nhiều quỹ khác nhau và
phải chịu rất nhiều chi phí khác như tiền xây dựng cơ sở vật chất, đi lại, bán
trú, sách báo và đồ dùng học tập, các khoản phí hàng tháng để chi trả một số
dịch vụ… Với những gia đình có mức sống thấp thì chi phí đi học mẫu giáo của
trẻ em có thể là một trở ngại lớn mặc dù đây là giai đoạn tiền đề quan trọng
cho việc sẵn sàng đi học phổ thông. Thêm vào đó, số lượng trường công lập vẫn
chưa thể nói là đã đáp ứng đủ nhu cầu nhập học của trẻ em, vì thế một bộ phận
dân cư phải gửi con cái đi học mẫu giáo ở trường dân lập hoặc tư thục với học
phí và các chi phí cao hơn nhiều so với trường công lập. Điều này đã cản trở
trẻ em trong các gia đình nghèo hơn tiếp cận với loại hình giáo dục mầm non. Thay vì đến
trường, trẻ em trong những gia đình có mức sống nghèo hơn có thể phải ở nhà do
người lớn hoặc những đứa trẻ lớn tuổi hơn trông nom.
Biểu đồ 5: Chi bình quân cho giáo dục mẫu giáo chia theo nhóm thu nhập (nghìn đồng)
Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010.
5. Thảo
luận và kết
luận
Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc mở rộng
và cải thiện mức độ tiếp cận giáo dục cho trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo. Thực tế số
lượng trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được tiếp cận với giáo dục ngày một tăng
trong những thập niên qua cho thấy, Nhà nước và gia đình có vai trò to lớn
trong lĩnh vực giáo dục này. Nhà nước đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo và quyết
tâm về mặt chính trị và đã đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực giáo
dục mầm non. Nhà nước và bản thân các hộ gia đình đã nhận thức được rằng, việc
cung cấp một loạt các hoạt động và cơ hội học tập cho trẻ em trong độ tuổi
trước tiểu học sẽ đổi lại sự cải thiện trong việc sẵn sàng đi học; làm cho việc
tuyển sinh vào lớp đầu cấp tiểu học có nhiều khả năng hơn; giảm số học sinh
nhập học muộn, bỏ học và lưu ban; gia tăng việc hoàn thành cấp học và thành
tích học tập cũng như để có được những cá nhân phát triển ngôn ngữ, kỹ năng xã
hội, có năng lực và ý chí.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên-xã hội của từng vùng
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc tiếp cận giáo dục mẫu giáo
của trẻ em có sự chênh lệch giữa các vùng. Có lẽ nó không chỉ phản ánh các điều
kiện địa lý, cơ cấu kinh tế-xã hội, thái độ đối với việc đi học của người dân ở
các cộng đồng khác nhau mà còn phản ánh thực trạng của hệ thống cơ sở giáo dục.
Việc nhập học mẫu giáo có sự chênh lệch giữa các vùng còn cho thấy dịch vụ này
có chất lượng thấp ở những vùng khó khăn. Vấn đề đạt được các mục tiêu về tỷ lệ đi học mẫu giáo của trẻ em ở Việt
Nam sẽ phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của Nhà nước trong việc mở rộng và nâng
cao chất lượng dịch vụ của loại hình giáo dục này ở các vùng nông thôn và vùng
sâu, vùng xa.
Sự tương quan giữa tỷ lệ nhập học mẫu giáo của trẻ em và
trình độ học vấn của người mẹ cho thấy những người mẹ có học vấn sẵn sàng cho
con cái đi học mẫu giáo hơn những người mẹ có trình độ học vấn hạn chế hơn và
họ cũng hiểu rõ tầm quan trọng của việc tiếp cận giáo dục mầm non hơn. Ngoài
ra, một phần quan trọng nữa của mối liên hệ này rõ ràng là phụ nữ có học vấn sẽ
có nhiều khả năng có được thu nhập cao hơn hoặc sống ở các vùng thành thị, nơi
có cơ sở vật chất về dịch vụ giáo dục. Học
vấn còn quyết định về nghề nghiệp, các mô hình lịch sử trên thế giới cho thấy những người mẹ làm việc
trong khu vực không chính thức hoặc nắm ít quyền lực kinh tế đều phải dựa vào
người thân chăm sóc hoặc trông nom hộ con cái trong khi tham gia làm việc.
Ngược lại những bà mẹ có việc làm trong khu vực chính quy, có nhiều khả năng
biết và sử dụng nhiều lựa chọn để đảm bảo phúc lợi cho các con nhỏ của họ. Họ
cũng có nhiều khả năng sử dụng dịch vụ giáo dục mầm non được cấu trúc hóa và
đối xử bình đẳng với con trai và con gái (UNESCO, 2007).
Việc đơn giản là có đưa con cái của mình đến trường hay
không, sau đó có duy trì việc con cái tiếp tục đến trường và cả việc kéo dài
hành trình học đường hay không đều phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh kinh tế-xã
hội của gia đình. Mặc dù ngân sách công cho giáo dục mầm non tăng lên, nhưng
hoạt động của các cơ sở giáo dục mầm non vẫn dựa vào sự đóng góp của người dân
là chính. Do đó, những thách thức mà trẻ em nghèo phải vượt qua để được tiếp
cận giáo dục mầm non vẫn lớn hơn những thách thức đối với trẻ em xuất thân từ
những gia đình khá giả. Trong khi giáo dục tiểu học hiện được miễn phí, thì trẻ
em tại các cơ sở mẫu giáo công lập vẫn phải đóng học phí và đóng góp cho việc
nuôi dưỡng cũng như những khoản chi phí gián tiếp khác. Khác biệt về mức sống trong
tiếp cận giáo dục mẫu giáo của trẻ em còn cho thấy, chi phí cơ hội tìm kiếm các
dịch vụ là rất cao đối với người nghèo và là rào cản lớn cho việc sử dụng dịch
vụ giáo dục mầm non cho trẻ em. Vì người nghèo thường làm việc trong các khu
vực không chính thức - khu vực được biết đến là thu nhập thấp, tốn nhiều công
sức - vì thế gây khó khăn cho người nghèo khi bỏ thời gian đầu tư giáo dục mầm
non cho trẻ em.
Mặc dù Nhà nước đã thực hiện những chính sách nhằm giảm
bớt gánh nặng tài chính cho việc học hành của trẻ em nhưng thực tế các hộ gia
đình vẫn phải đóng góp đáng kể cho giáo dục của con cái và vì thế hạn chế khả
năng tiếp cận bậc học mẫu giáo của trẻ em ở những hộ gia đình nghèo nhất. Việc
đạt được các mục tiêu quốc gia rõ ràng sẽ phụ thuộc vào năng lực của Nhà nước
trong việc làm giảm những bất bình đẳng về khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo
dục mẫu giáo và với tới người nghèo.
Các chương trình giáo dục mầm non nói chung và mẫu giáo
nói riêng cung cấp cho trẻ em những kinh nghiệm hoàn toàn khác với những phương
thức chăm sóc tại gia đình và cộng đồng. Đặc biệt, chương trình tiền học đường
có mục đích cụ thể là tạo ra một môi trường thuận lợi cho trẻ em chuẩn bị bước
vào học tiểu học. Mặc dù đã đạt được những thành tích cao về số nhập học, nhiều
trẻ em vẫn chưa được nhập học mẫu giáo, con số này ước tính khoảng 30% số trẻ
em trong độ tuổi 3-5 ở MICS 4. Đó là những trẻ em khó tiếp cận nhất xét về các
khía cạnh cả về kinh tế, xã hội, và dân tộc cũng như khoảng cách địa lý lẫn khả
năng học tập. Vì vậy, đến được với những phần trăm cuối cùng trẻ em chưa được
đi học mẫu giáo đòi hỏi hàng loạt những biện pháp đặc biệt mang tính trọng tâm
và cũng có thể là tốn kém hơn nhằm cung cấp cho những trẻ em này cơ hội công
bằng để có thể bắt đầu và hoàn thành chu trình đầy đủ giáo dục mầm non.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và
Đào tạo (2013), Hội nghị tổng kết năm học
2012 - 2013 và Hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2013 - 2014, http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/thieu-hon-27500-giao-vien-mam-non-770266.htm.
2. Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội (2008), Báo
cáo quốc gia lần thứ ba và lần thứ tư: Việt Nam thực hiện công ước quốc tế quyền
trẻ em giai đoạn 2002-2007, Hà Nội.
3. Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (2003), Kế hoạch hành
động quốc gia giáo dục cho mọi người 2003-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà
Nội.
4. Nguyễn Văn Hùng
(2005), Báo cáo tổng quan tình hình giáo
dục và chăm sóc trẻ thơ, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Việt Nam và Ngân
hàng Phát triển châu Á, Hà Nội.
5. Nhóm hành động
chống đói nghèo (2002), Cung cấp giáo dục
cơ bản có chất lượng cho mọi người, Báo cáo chung của các nhà tài trợ, Hà
Nội.
6. Nolwen Henaff
và Jean Yves Martin (2001), "Tổ
chức lại nền kinh tế và cơ cấu lại xã hội", Nolwen Henaff và Jean Yves Martin (Chủ biên), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt
Nam 15 năm Đổi mới, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
7. Plan Việt Nam
(2008), Nghiên cứu thực trạng giáo dục mầm
non ở xóm Đồng Quan xã Bàn Đạt tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo nghiên cứu.
8. Tổng cục Thống
kê (2006), Điều tra đánh giá các mục tiêu
trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2006 (MICS 3), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
9. Tổng cục Thống
kê (2011a), Kết quả khảo sát mức sống dân
cư năm 2010, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
10. Tổng cục Thống
kê (2011b), Việt Nam-Điều tra đánh giá
các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
11. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2008), Thực trạng và nhu cầu gửi trẻ dưới 36 tháng tuổi-Một số gợi ý chính
sách, Hà Nội.
12. UNESCO (2007), Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho
mọi người: Nền tảng vững chắc - Chăm sóc và giáo dục mầm non, UNESCO,
Paris.
13. UNESCO (2012), Education For All Global Monitoring Report:
Youth anh Skills-Putting education to work, UNESCO.
14. UNICEF Việt Nam
(2008), Phân tích tình hình trẻ em ở Việt
Nam sử dụng cách tiếp cận dựa vào quyền, Hà Nội.
15. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (2003), Điều tra nhân khẩu học và Sức khỏe 2002, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
No comments:
Post a Comment