Tuesday, December 31, 2019
Encyclopedia of Sociology, Volume 4
Monday, December 30, 2019
Encyclopedia of Sociology, Volume 3
Sunday, December 29, 2019
Bảng hỏi-Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (MICS)
Saturday, December 28, 2019
Encyclopedia of Sociology, Volume 2
Friday, December 27, 2019
Bảng hỏi-Gender survey | Nghiên cứu Giới và Gia đình
Labels:
bảng hỏi,
bạo lực gia đình,
bất bình đẳng,
bình đẳng giới,
điều tra dân số,
giáo dục,
giới,
phụ nữ,
tool,
Vietnam,
xã hội,
xã hội học
Thursday, December 26, 2019
Thách thức và giải pháp để phụ nữ dân tộc thiểu số không bị bỏ lại phía sau (2019)
Labels:
bất bình đẳng,
bình đẳng giới,
bỏ lại phía sau,
dân tộc thiểu số,
DTTS,
gia-dinh,
giáo dục,
giới,
hộ gia đình,
MICS,
phụ nữ,
sach,
sức khỏe,
tảo hôn,
trẻ em gái,
Vietnam,
xã hội học
Encyclopedia of Sociology, Volume 1
Trẻ em và sự tham gia lao động đóng góp thu nhập cho gia đình
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2009). “Trẻ em và sự tham gia lao động đóng góp thu
nhập cho gia đình”. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4/2009.
1. Đặt vấn đề
Từ khi đất nước bước vào cơ chế thị trường với nhiều
thành phần kinh tế đã hình thành nên một tỷ lệ công ăn việc làm tự tạo trong
gia đình, sức lao động bao gồm sức lao động của trẻ em đã trở thành một loại
hàng hóa có giá trị cụ thể về mặt kinh tế (Joachim Theis và Hoàng Thị Huyền, 1997). Cùng với sự biến đổi kinh tế-xã hội và chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề, vai trò kinh tế của trẻ em trong gia đình cũng biến đổi theo.
Lao động trẻ em ngày càng trở nên hữu hình hơn trong cơ cấu phân công lao động
gia đình khi nó góp phần trực tiếp làm tăng thu nhập hộ gia đình (Nguyễn Thị Vân Anh và Vân Anh, 1998). Với mức sống chưa cao và thu nhập thấp như hiện nay,
sự tham gia của trẻ em vào các hoạt động kinh tế trong và ngoài gia đình là một
đòi hỏi cấp thiết (Barbara S. Mensch và cộng sự, 2000). Trẻ em ở Việt Nam có trách nhiệm trong hộ gia đình
vừa như một lực lượng lao động vừa là một nguồn cung cấp lao động trực tiếp
trong các hoạt động kinh doanh, lao động nông nghiệp của hộ gia đình và làm
thuê (Amy Liu và Yuk Chu, 1997). Phần lớn trẻ em làm các công việc giản đơn, tham gia
lao động ở mức độ tiền công thấp, không có trình độ chuyên môn hay kỹ năng nghề
nghiệp (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và UNICEF Việt Nam,
2008).
Labels:
chăm sóc trẻ em,
lao động trẻ em,
tre-em,
Vietnam,
xã hội học
10 năm thi hành luật phòng chống bạo lực gia đình
Labels:
bạo lực gia đình,
bất bình đẳng,
bình đẳng giới,
dân tộc thiểu số,
gia-dinh,
phụ nữ,
sach,
sociology,
trẻ em gái,
xã hội học
Tuesday, December 24, 2019
Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam
Labels:
bất bình đẳng,
chăm sóc trẻ em,
dân tộc thiểu số,
lao động trẻ em,
mẫu giáo,
MICS,
sach,
sức khỏe trẻ em,
trẻ em gái,
tre-em,
tử vong trẻ em,
xã hội học
Monday, December 23, 2019
Tảo hôn ở phụ nữ dân tộc thiểu số và các yếu tố ảnh hưởng
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2019). “Tảo hôn ở phụ nữ dân tộc thiểu số và các yếu tố ảnh hưởng”. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 4, tr. 80-87.
Labels:
dân tộc thiểu số,
DTTS,
gia-dinh,
MICS,
phụ nữ,
tảo hôn,
trẻ em gái,
Vietnam,
xã hội học
Gender statistics in Vietnam | Thống kê giới 2016
Labels:
bất bình đẳng,
bình đẳng giới,
điều tra dân số,
giáo dục,
giới,
phụ nữ,
sach,
sociology,
sức khỏe,
thống kê,
xã hội học
Saturday, December 21, 2019
Mối liên hệ giữa các yếu tố nhân khẩu học - xã hội và tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở Việt Nam
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2016). Mối liên hệ giữa các yếu tố nhân khẩu học - xã hội
và tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở Việt Nam. Tạp
chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1, tr. 61-72.
1.
Đặt vấn đề
Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là một chỉ số đầu ra và là một
trong những thước đo đặc biệt về tình hình chăm sóc sức khỏe ở một quốc gia bởi
vì trẻ em rất nhạy cảm với các điều kiện vệ sinh nghèo nàn, suy dinh dưỡng,
hoặc thiếu sự chăm sóc sức khỏe của cha mẹ. Việc giảm số trẻ em dưới 1 tuổi tử
vong cũng thường được xem là cách hiệu quả nhất để tăng tuổi thọ bình quân từ
khi sinh. Do đó, những hoạt động cụ thể chăm sóc sức khỏe để giảm tử vong trẻ
em sẽ có tác dụng lâu dài, dẫn đến những kết quả tốt hơn về dinh dưỡng, giáo
dục và sức khỏe sau này (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002). Vấn đề tử vong trẻ em không chỉ được quan tâm thực hiện
trong Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ gần đây mà xa hơn đã được quy định
trong Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Điều 24 của Công ước nêu rằng, các quốc
gia thành viên phải theo đuổi việc thực hiện đầy đủ quyền của trẻ em được hưởng
mức cao nhất có thể đạt được về sức khỏe và đặc biệt phải thực hiện những biện
pháp thích hợp để giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em và trẻ em sơ sinh.
Việt Nam đã đạt
được những thành tựu ấn tượng trong việc giảm tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi
trong những thập kỷ qua, đặc biệt là trong những năm thực hiện Mục tiêu thiên
niên kỷ của Liên hợp quốc. Kế hoạch đặt ra cho việc thực hiện mục tiêu này là
giảm 2/3 tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi trong khoảng từ 1990 đến 2015 và chỉ
tiêu này của năm 2015 là 14,8‰. Có thể nói Việt Nam đã dần đạt được kế hoạch
đặt ra của Mục tiêu thiên niên kỷ khi từ năm 2010 đến nay, tỷ lệ tử vong trẻ em
luôn đạt dưới 16‰.
Labels:
chăm sóc trẻ em,
dân tộc thiểu số,
sức khỏe trẻ em,
trẻ em gái,
tre-em,
tử vong trẻ em,
Vietnam,
xã hội học
Lao động xuyên biên giới của một số tộc người ở vùng biên khu vực Đông Bắc
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2017). Lao động
xuyên biên giới của một số tộc người ở vùng biên khu vực Đông Bắc. Viện Dân tộc học. Những vấn đề
cơ bản, cấp bách về dân tộc, tộc người ở nước ta hiện nay: Lý luận và thực tiễn
(Kỷ yếu Hội nghị khoa học quốc gia năm 2016). Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 445-454.
1. Giới thiệu
Lao động xuyên biên giới được xem là một chiến lược sống để
đối phó với tình trạng thiếu việc làm và thể hiện nhu cầu nâng cao thu nhập của
hộ gia đình ở khu vực giáp biên. Một số nghiên cứu cho rằng, việc qua lại biên
giới quốc gia trong hoạt động kinh tế giữa các dân tộc đã diễn ra rất lâu đời
và vẫn được duy trì, thậm chí được tăng cường hơn trong giai đoạn hiện nay (Lý Hành Sơn, 2014). Làm thuê bên kia biên giới
là hoạt động thường thấy ở các dân tộc thiểu số tại vùng biên của nước ta và
diễn ra mạnh mẽ nhất là ở vùng biên giới Việt – Trung. Người dân tộc thiểu số ở
vùng biên đã đi sâu vào nội địa Trung Quốc từ vài chục đến vài trăm km để làm
thuê cho đồng tộc hoặc khác tộc với những công việc thường liên quan đến canh
tác nông nghiệp hay khai phá ruộng nương (Vương Xuân Tình, 2010). Có sự sôi động trong lao
động làm thuê xuyên biên giới ở tỉnh Lạng Sơn. Nhiều cư dân Tày, Nùng ở một số
khu vực của tỉnh này đã vào nội địa Trung Quốc làm thuê với công việc chính là
lao động nông nghiệp. Thời điểm đi lao động nhiều nhất là vào những tháng cuối
năm, lúc gặt hái xong. Khi đi, họ chỉ sử dụng giấy thông hành với tính chất như
đi thăm thân hay đi chợ. Nếu họ chưa biết nơi làm thì qua cửa khẩu sẽ có người
Trung Quốc tới đón (Bùi Xuân Đính, 2010).
Lao động
xuyên biên giới là một đòi hỏi tất yếu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất của sự
phát triển không đồng đều giữa hai vùng lãnh thổ cạnh đường giáp biên. Những
khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế giữa hai vùng biên giới của hai
quốc gia là nguyên nhân cơ bản tạo nên dòng lao động đặc thù này. Nguyên nhân sâu
xa của tình trạng làm thuê xuyên biên giới của người dân Việt Nam là do vùng
biên giới của Trung Quốc được chú trọng, ưu tiên với chính sách “hưng biên phú
dân” nên có bước phát triển mạnh về kinh tế, cần nguồn lao động lớn trong khi
lực lượng lao động tại chỗ của họ lại không đủ. Đối với các tộc người thiểu số
ở biên giới Việt Nam, sang bên Trung Quốc làm thuê được ưu tiên lựa chọn hơn
nơi khác bởi vì thu nhập cao hơn; địa bàn gần hơn và thành phần dân tộc, ngôn
ngữ tập quán tương đồng với nhau; làm các công việc quen thuộc và sống ở vùng
nông thôn phù hợp với cuộc của họ như ở quê nhà (Bùi Xuân Đính, 2010).
Labels:
dân tộc thiểu số,
gia-dinh,
lao động xuyên biên giới
Tham quan động Thiên đường ở Quảng Bình
Tham quan Động Thiên đường ở Quảng Bình
Tiếp cận giáo dục của trẻ em gái ở nhóm tách biệt xã hội về điều kiện sống
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2016). Tiếp cận giáo dục của trẻ em gái ở nhóm tách biệt xã hội về điều kiện sống. Võ Khánh Vinh và Nguyễn Hữu Minh (Đồng chủ biên). Các chiều cạnh giới của sự tách biệt xã hội hướng tới chính sách toàn diện hơn đối với phụ nữ. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 201-216.
1. Giới thiệu
Giáo dục khuyến khích phát triển sáng kiến, khả năng linh hoạt và thích ứng, giúp cho con người phát triền quyền năng hơn, thay đổi hành vi và tiếp cận những cơ hội to lớn trong cuộc sống. Tầm quan trọng của giáo dục đối với cá nhân, cộng đồng và đối với sự phát triển của một quốc gia được phản ánh trong việc thừa nhận nó như một quyền con người (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002). Quyền được tiếp cận giáo dục đã được quy định không chỉ trong Công ước về Quyền trẻ em mà còn cả trong Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc. Điều 28 của Công ước Quyền trẻ em công nhận quyền được học tập là một quyền cơ bản và nhấn mạnh rằng việc thực quyền phải đảm bảo từng bước và trên cơ sở những cơ hội bình đẳng (UNICEF Việt Nam, 2008).
Giáo dục cho trẻ em gái là rất quan trọng trong việc cải thiện triển vọng kinh tế của gia đình thông qua việc nâng cao trình độ và kĩ năng. Những trẻ em gái được giáo dục tốt hơn sẽ tham gia vào lực lượng lao động được trả công, gia đình sẽ có thu nhập cao hơn và tổng năng suất lao động cũng tăng lên. Tại những nền kinh tế nông nghiệp, học vấn của phụ nữ và trẻ em gái đồng nghĩa với sản lượng nông nghiệp cao hơn (UNFPA, 2005). Thực hiện thập kỷ biết chữ của Liên hợp quốc (2003-2012), cộng đồng quốc tế đã nhấn mạnh phương diện xã hội của biết chữ cho phụ nữ và công nhận rằng: “tạo ra các môi trường và xã hội biết chữ là một điều kiện cần thiết để đạt các mục tiêu về xóa nghèo khổ, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, hạn chế gia tăng dân số, đạt bình đẳng giới và bảo đảm phát triển bền vững, hòa bình và dân chủ” (United Nations, 2001). Thêm vào đó, dự án Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc nhận mạnh rằng, giáo dục trung học cơ sở hoặc cao hơn cho phụ nữ là một yếu tố mang tính chiến lược và điều này sẽ mang lại “hiệu quả lớn nhất cho việc trao quyền cho phụ nữ”.
Labels:
điều tra dân số,
DTTS,
giáo dục,
phụ nữ,
sociology,
trẻ em gái,
tre-em,
xã hội học
Thursday, December 19, 2019
Lao động xuyên biên giới của người dân ở một số địa phương vùng biên khu vực Đông Bắc
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý
Long (2015). Lao động xuyên biên giới của người dân ở một số địa phương vùng
biên khu vực Đông Bắc. Tạp chí Nghiên cứu
Gia đình và Giới, số 5, tr. 130-142.
Tóm tắt:
Lao động bên
kia biên giới là một thực tế phản ánh hệ quả tất yếu của tình trạng thiếu việc
làm cũng như nhu cầu nâng cao thu nhập của người dân ở khu vực biên giới Đông
Bắc Việt Nam. Cùng với đó là do địa hình có nhiều đường mòn hoặc lối mở nên cư dân sinh sống hai bên biên
giới có thể qua lại dễ dàng.
Trong số những thành
viên hộ gia đình từ 15 tuổi trở lên được khảo sát, nhóm đối tượng có khả năng
sang bên kia biên giới làm thuê nhiều hơn ở nam giới và tập trung chủ yếu vào
những đoàn hệ trẻ hơn. Người dân tộc Kinh và người có học vấn cao hơn có xác
suất lao động ở bên kia biên giới thấp hơn so với người dân tộc thiểu số và
người có học vấn thấp hơn. Thành viên ở hộ gia đình có mức sống khá nhất và tự
đánh giá là không thiếu đất sản xuất có khả năng đi lao động bên kia biên giới
thấp hơn so với những người khác. Nghiên cứu cho thấy, vấn đề lao động xuyên
biên giới của người dân cũng bộc lộ những vấn đề cấp bách trong quản lý xã hội.
Do đó, ngoài việc cung cấp thông tin và tuyên truyền, tiếp tục tăng cường công tác quản lý, hướng
dẫn cụ thể cho người dân khi đi lao động bên kia biên giới theo đúng quy định
là rất cần thiết.
Từ khóa: Lao động xuyên biên giới; Khu vực biên giới; Đông Bắc.
1. Giới thiệu
Lao động xuyên biên giới được xem là một chiến lược sống để
đối phó với tình trạng thiếu việc làm, đáp ứng nhu cầu nâng cao thu nhập của hộ
gia đình ở khu vực giáp biên. Một số nghiên cứu cho rằng, việc qua lại biên
giới quốc gia trong hoạt động kinh tế giữa các dân tộc đã diễn ra rất lâu đời
và vẫn được duy trì, thậm chí được tăng cường hơn trong giai đoạn hiện nay (Lý Hành Sơn, 2014). Làm thuê bên kia biên giới
là hoạt động thường thấy ở các dân tộc thiểu số tại vùng biên của nước ta, đặc
biệt là ở vùng biên giới Việt - Trung. Người dân tộc thiểu số ở vùng biên đã đi
sâu vào nội địa Trung Quốc từ vài chục đến vài trăm km để làm thuê cho đồng tộc
hoặc khác tộc với những công việc thường liên quan đến canh tác nông nghiệp như
trồng, chăm sóc và khai thác mía, chuối, dứa… hay khai phá ruộng nương (Vương Xuân Tình, 2010). Thời điểm đi lao động nhiều
nhất là vào những tháng cuối năm, lúc gặt hái xong. Khi đi, họ chỉ sử dụng giấy
thông hành với tính chất như đi thăm thân hay đi chợ. Nếu họ chưa biết nơi làm
thì qua cửa khẩu sẽ có người Trung Quốc tới đón (Bùi Xuân Đính, 2010).
Labels:
bình đẳng giới,
dân tộc thiểu số,
DTTS,
gia-dinh,
hộ gia đình,
lao động xuyên biên giới,
phụ nữ,
sociology,
xã hội học
Wednesday, December 18, 2019
Chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và các yếu tố ảnh hưởng
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2012). Chăm sóc sức khỏe cho trẻ
em ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tạp
chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 3, tr. 15-26.
1. Đặt vấn đề
Tầm quan trọng của sức khỏe trẻ em đối với sự phát
triển cá nhân, cộng đồng và quốc gia được phản ánh trong việc thừa nhận nó như
một quyền cơ bản của trẻ em. Những nền tảng vững chắc được xây đắp từ thời kỳ
mầm non, bao gồm được chăm sóc sức khỏe tốt có thể giúp trẻ em đảm bảo việc
sống còn, an toàn và hòa nhập với xã hội, thóat khỏi những thiệt thòi, bất bình
đẳng trong tương lai.
Chăm sóc sức khỏe trẻ em là một quá trình liên tục kế
tiếp nhau từ khi còn là bào thai tới tuổi vị thành niên. Khoa học hiện đại đã
chứng minh sức khỏe thể chất và tinh thần của người mẹ có ảnh hưởng trực tiếp
đến thai nhi. Vì thế, khi nói tới sức khỏe của trẻ em không thể không đề cập
đến giai đoạn trẻ em còn đang ở trong bào thai. Việc chăm sóc các bà mẹ đang
mang thai chính là chăm sóc đứa con. Công tác chăm sóc bà mẹ khi mang thai là
bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong chiến lược chăm sóc và nâng cao sức
khỏe trẻ em (Nguyễn Thu Nhạn, 1994). Việc chăm sóc bà mẹ tốt hơn trước và sau khi sinh sẽ
giải quyết được thách thức của một phần ba số trẻ em tử vong trong những ngày
đầu tiên của cuộc đời (Liên hợp quốc, 2006). Những đứa trẻ mới sinh mồ côi mẹ có khả năng tử vong
cao hơn từ ba đến mười lần so với những đứa trẻ còn mẹ (UNFPA, 2005). Chăm sóc sức khỏe trẻ em giai đoạn nuôi dưỡng sau sinh có vai trò quan trọng
không kém, đây là tiền đề tạo điều kiện cho trẻ em phát triển thể lực toàn
diện, giảm khả năng mắc bệnh, tránh được nguy cơ tử vong do bệnh tật. Ngoài ra, chăm sóc sức khỏe trẻ em còn đòi hỏi
phải có kiến thức và ý thức sử dụng các cơ sở dịch vụ y tế phù hợp trong quá
trình nuôi dưỡng.
Trẻ em đi học mẫu giáo và các yếu tố ảnh hưởng
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần
Quý Long (2017). Trẻ em đi học mẫu giáo và các yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số
3, tr. 70-81.
Tóm tắt:
Nghiên cứu sử dụng số liệu Điều tra đánh giá các mục
tiêu về trẻ em và phụ nữ Việt Nam lần thứ 5 vào năm 2014 (MICS 2014)
nhằm xem xét thực trạng, đặc
điểm và những yếu tố ảnh hưởng đến
việc đi học mẫu giáo của trẻ em 3-5
tuổi. Kết quả phân tích đa biến cho thấy việc đi học mẫu giáo của trẻ em chịu
ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê của một
số yếu tố đặc trưng trẻ em và
gia đình. Trẻ em ở nhóm tuổi nhỏ hơn và là dân tộc thiểu số có khả năng
đi học mẫu giáo thấp hơn trẻ em ở nhóm tuổi lớn hơn và trẻ em người Kinh. Người
mẹ có học vấn cao hơn và tham gia làm việc thì trẻ em có xác suất đi học mẫu
giáo cao hơn. Khi gia đình tăng thêm một thành viên thì xác suất đi học mẫu
giáo của trẻ em lại giảm. Gia đình có mức sống cao hơn trẻ em có khả năng được
đi học mẫu giáo cao hơn. So với khu vực thành thị, trẻ em ở khu vực nông thôn
có xác suất đi học mẫu giáo thấp hơn. Trẻ em ở những vùng khó khăn có xác suất
đi học mẫu giáo thấp hơn so với trẻ em ở những vùng khác. Đồng bằng sông Cửu
Long và Tây Nguyên là hai vùng có trẻ em đi học mẫu giáo thấp nhất.
Từ khóa: Trẻ em, Học mẫu giáo, Giáo dục mầm
non.
1. Giới thiệu
Trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo tham gia học đường sẽ được
thúc đẩy sự phát triển tình cảm cũng như các kỹ năng về ngôn ngữ, nhận thức và
thể lực. Chính những kỹ năng tiếp thu được qua các chương trình chăm sóc giáo
dục ở giai đoạn mẫu giáo sẽ là nền tảng cho hoạt động học tập sau này của trẻ
em. Những lợi ích rộng lớn hơn cho xã hội của giáo dục trước tiểu học có thể
còn bao gồm tăng năng suất và thu nhập, cải thiện sức khỏe và các cơ hội bình
đẳng hơn (UNESCO, 2007). Các chương
trình mẫu giáo và giáo dục tiền học đường còn tập trung vào việc hòa nhập trẻ
em vào xã hội và môi trường học tập. Chương trình tiền học đường có mục đích cụ
thể là tạo ra một chương trình chuẩn bị để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em
vào học tiểu học. Mục đích là làm cho những dịch vụ này phổ biến hơn cho càng
nhiều trẻ em càng tốt và cung cấp các cơ hội bổ sung về phát triển xã hội và
giáo dục ngoài gia đình (Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Nhập học của trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2019). Nhập học của trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo. Trần Quý Long. Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo tham gia học
đường sẽ được thúc đẩy sự phát triển
tình cảm cũng như các kỹ năng về ngôn ngữ, nhận thức và thể lực. Chính những kỹ
năng tiếp thu được qua các chương trình chăm sóc giáo dục ở giai đoạn mẫu giáo
sẽ là nền tảng cho hoạt động học tập sau này của trẻ em. Những lợi ích rộng lớn
hơn cho xã hội của giáo dục trước tiểu học có thể còn bao gồm tăng năng suất và
thu nhập, cải thiện sức khỏe và các cơ hội bình đẳng hơn (UNESCO, 2007). Các chương
trình mẫu giáo và giáo dục tiền học đường tập trung hơn vào việc hòa nhập trẻ
em vào xã hội và môi trường học tập. Chương trình tiền học đường có mục đích cụ
thể là tạo ra một chương trình chuẩn bị để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em
vào học tiểu học. Mục đích là làm cho những dịch vụ này phổ biến hơn cho càng
nhiều trẻ em càng tốt và cung cấp các cơ hội bổ sung về phát triển xã hội và
giáo dục ngoài gia đình (Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, 2003).
Labels:
chăm sóc trẻ em,
giáo dục,
hộ gia đình,
mẫu giáo,
MICS,
tre-em,
xã hội học
Tiếp cận điều kiện vui chơi giải trí của trẻ em trong độ tuổi mầm non
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2019). Tiếp cận điều kiện vui chơi giải trí của trẻ em trong độ tuổi mầm non. Trần Quý Long. Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Những năm tháng đầu đời
là giai đoạn dễ bị tổn thương và cũng là giai đoạn có tiềm năng rất to lớn cho
trẻ em. Trong thời gian đó, sự chăm sóc và kích thích/ khích lệ đầy đủ là rất cần
thiết để tạo nền tảng cho sự phát triển và hạnh phúc của một đứa trẻ. Vui chơi
giải trí là một trong những hoạt động không thể thiếu trong giai đoạn trẻ thơ để
phát triển toàn diện về trí tuệ và sức khỏe, và được Công ước về quyền trẻ em
quy định là một nhu cầu và quyền cơ bản của trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em của Việt Nam cũng quy định rằng trẻ em có quyền tham gia vào
các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao và du lịch
(Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội và UNICEF Việt Nam, 2008).
Một chỉ số quan trọng đối với phát triển mầm non là việc
tiếp cận với sách/ truyện tranh. Được tiếp cận với sách trong những năm đầu đời
không chỉ cho trẻ khả năng nhận biết mặt chữ tốt hơn mà còn giúp trẻ có nhiều
cơ hội để phát triển chỉ số thông minh. Số sách có ở gia đình đã giúp quyết định sự phát
triển ngôn ngữ, kết quả về môn đọc và thành công ở nhà trường. Đối với hoạt
động chơi đồ chơi, người lớn trong gia đình có thể hướng dẫn trẻ em phát triển
những tính cách cần thiết của chủ nhân tương lai như tính độc lập, chủ động,
sáng tạo… Một nghiên cứu theo chiều dọc ở Vương quốc Anh trên quy mô lớn về trẻ
em cho thấy rằng, ảnh hưởng quan trọng đối với thành công trong việc học đọc
của trẻ em ở tiểu học là mức độ mà chúng được trực tiếp trải nghiệm các tài
liệu in trong những năm trước tiểu học (UNESCO, 2007). Đồ chơi cũng đóng một vai
trò quan trọng trong việc kích thích sự sáng tạo của trẻ em. Việc sẵn có đồ
chơi và các thiết bị, vật liệu để vẽ và chơi trong gia đình là một chỉ báo tốt
về điểm số cao về phát triển nhận thức trong số trẻ em từ 1-3 tuổi ở Moldova, bất
kể vị thế kinh tế - xã hội của gia đình (UNESCO, 2007). Trong khi trẻ nhỏ ở Kênia có ít đồ chơi và các vật dụng
khác được xem là của riêng chúng thì trẻ em ở Bắc Mỹ nhận được hàng loạt quà
tặng và đồ chơi khác nhau và tăng dần khi chúng lớn và được khuyến khích phát
triển các sở thích cá nhân. Do đó trẻ nhỏ ở Kênia không phát triển được ý thức
về cá nhân như trẻ nhỏ ở Bắc Mỹ (UNESCO, 2007).
Tuesday, December 17, 2019
Trẻ em trong độ tuổi mầm non và việc tiếp nhận các hoạt động hỗ trợ phát triển từ gia đình
Trần Quý Long
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý Long (2019). Trẻ em trong độ tuổi mầm
non và việc tiếp nhận các hoạt động hỗ trợ phát triển từ gia đình. Trần Quý Long, Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
1. Giới thiệu
Những năm
tháng ở tuổi mầm non là giai đoạn có tiềm năng to lớn cho đứa trẻ và cũng là
giai đoạn rất dễ bị tổn thương. Việc đảm bảo trẻ em có được những kinh nghiệm
tích cực; quyền của trẻ em được đảm bảo và các nhu cầu về y tế, khích lệ và hỗ
trợ được đáp ứng thỏa đáng là vấn đề vô cùng quan trọng đối với phúc lợi và sự
phát triển của trẻ em. Trong thời gian đó, sự bảo vệ, chăm sóc và kích thích/
khích lệ đầy đủ là rất cần thiết để tạo nền tảng cho sự phát triển và hạnh phúc
của một đứa trẻ (UNESCO, 2007). Những đầu tư đầu thời kỳ thơ ấu đem lại nhiều lợi
ích quan trọng, và có thể làm giảm bớt việc chuyển tải sự bất bình đẳng từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Rất nhiều trẻ em ở các nước đang phát triển phải chịu
đựng tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về dinh dưỡng, sức khỏe, sự phát triển
về nhận thức và tình cảm xã hội từ rất sớm, với những hậu quả ảnh hưởng suốt
đời về thành tích giáo dục, việc làm và thu nhập (Ngân hàng Thế giới, 2007).
Monday, December 16, 2019
luật viên chức - ôn thi chuyên viên chính
Labels:
hoc-tap,
luật viên chức,
nghiên cứu viên chính
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em Việt Nam
Trần Quý Long1
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý
Long (2018). Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ
em Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 6, tr. 32-38.
Email: tranquylong@gmail.com
Nhận
ngày 01 tháng 01 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 6 tháng 4 năm 2018.
Tóm tắt: Việc tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em (việc trẻ em được đi học ở bậc trung học ở Việt Nam) không chỉ phụ thuộc vào các chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Trẻ em thuộc gia đình có mức sống thấp, dân tộc thiểu số, sống ở nông thôn, vùng sâu vùng xa gặp nhiều bất lợi hơn trong tiếp cận giáo dục trung học so với những trẻ em khác. Một yếu tố có ảnh hưởng rõ nét đến khả năng tiếp cận giáo dục trung học của trẻ em là mức sống gia đình. Nếu các chính sách về giáo dục không hướng đến nhóm người nghèo và thiệt thòi thì nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục trung học.
Từ khóa: Tiếp
cận giáo dục, trung học, trẻ em.
Phân loại ngành: Xã
hội học
Abstract: The
access to secondary education of Vietnamese children
depends not only on the policies of the Party and State but also on many other
factors. Children from families with low living standards, those of ethnic
minorities, and those living in rural and remote areas face more difficulties
in accessing secondary education than other children. A factor that has a
significant impact on a child's access to secondary education is the family’s
living standard. If the education policy fails to target the poor and the
disadvantaged, children living in difficult conditions will find it tough to
access secondary education.
Keywords: Access
to education, secondary education, education policy.
Subject classification: Sociology
1.
Giới thiệu
Giáo
dục là một yếu tố cơ bản để xây dựng nên vốn nhân lực, đóng góp vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội. Giáo dục đối với cá nhân, thậm chí được thừa nhận
như là một quyền con người. Công ước quốc tề về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc
tại Điều 28 đã khẳng định rằng, quyền được học tập là một quyền cơ bản. Giáo
dục là nền tảng để phát triển các kỹ năng tham gia vào các hoạt động kinh tế có
hàm lượng chất xám cao. Những người không có điều kiện tiếp cận giáo dục trung
học dễ bị loại khỏi những cơ hội mới (Ngân hàng Thế giới, 2001). Trẻ em
cần phải học hết lớp cuối cùng của bậc trung học phổ thông để được trang bị
nhiều kiến thức và kỹ năng thiết yếu (UNDP, 2011). Đầu tư cho giáo dục
trong thời kỳ thanh thiếu niên là rất cần thiết để tận dụng những thành quả của
đầu tư giáo dục thời kỳ thơ ấu (Ngân hàng Thế giới, 2007). Học vấn cao
sẽ giúp cho trẻ em chuyển tiếp sang giai đoạn đi làm được thuận lợi hơn và đạt
được nhiều thành công hơn trong cuộc sống (Trần Quý Long, 2013). Bài viết
này phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục trung học của
trẻ em Việt Nam. Các yếu tố đó là: điều kiện cư trú, gia đình và đặc trưng cá
nhân…
Quy mô hộ gia đình ở một số địa phương khu vực Bắc Trung Bộ và các yếu tố ảnh hưởng
Trần Quý Long *
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý
Long (2015). Quy mô hộ gia đình ở một số địa phương khu vực Bắc Trung Bộ và
các yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Phát triển
bền vững vùng, số 4, tr. 53-60.
1. Giới thiệu
Một đặc trưng cần
phải đề cập đến khi xem xét cấu trúc hộ gia đình là quy mô (số lượng thành viên
đang sống chung) của hộ gia đình. Quy mô hộ gia đình phản ánh nhiều khía
cạnh khác nhau của đời sống xã hội, dân số và kinh tế cũng như đóng vai trò
quan trọng đối với phúc lợi xã hội của gia đình và cá nhân. Ngoài ra, quy mô hộ
gia đình không chỉ cung cấp thông tin số thành viên ở chung mà còn phản ánh
những khía cạnh về mức sinh, cấu trúc nhân khẩu - lao động, tỷ lệ phụ thuộc và cả
những quan hệ kinh tế, văn hóa - xã hội của hộ gia đình. Theo hiểu biết chung
nhất, quy mô hộ gia đình là một hàm số thể hiện mức độ sinh đẻ và số thành viên
đã trưởng thành cùng ở chung.
Nghiên cứu này
được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố có thể ảnh hưởng đến quy mô hộ gia đình
ở một số địa phương thuộc khu vực Bắc Trung bộ. Trước hết, nghiên cứu trình bày
thực trạng số lượng thành viên đang chung sống theo các đặc điểm cụ thể của hộ
gia đình. Sau đó, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến để đánh giá xem
những đặc điểm này có mối quan hệ hoặc ảnh hưởng như thế nào đối với số lượng thành
viên đang sống chung với nhau trong hộ gia đình.
Labels:
gia-dinh,
hộ gia đình,
quy mô gia đình,
Vietnam,
xã hội học
Biến đổi cấu trúc hộ gia đình Việt Nam và mối liên hệ với các yếu tố nhân khẩu học – xã hội (Trần Quý Long)
1. Giới thiệu
Cấu
trúc hộ gia đình phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội,
dân số và kinh tế cũng như đóng vai trò quan trọng đối với phúc lợi xã hội của
gia đình và cá nhân. Xu hướng của cơ cấu gia đình Việt Nam là thu nhỏ về quy mô và hạt
nhân hóa nhằm phù hợp với xu hướng của hiện đại hóa. Tuy nhiên, tốc độ của sự
biến đổi diễn ra khác nhau ở từng thành phần của cấu trúc gia đình (Vũ Tuấn Huy 2006). Theo sự phát triển của nền
kinh tế-xã hội, cấu trúc gia đình cũng trở nên đa dạng hơn về hình thức tổ chức
(Lê Ngọc Văn 2011, Vũ
Tuấn Huy 2006).
Labels:
điều tra dân số,
gia-dinh,
hộ gia đình,
quy mô gia đình,
sociology,
xã hội học
Sunday, December 15, 2019
Tiếp cận giáo dục của trẻ em Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng
Đề nghị trích dẫn: Trần Quý
Long (2014). Tiếp cận giáo dục của trẻ em Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 4, tr.
48-58.
1. Giới thiệu
Giáo dục là một
yếu tố cơ bản để tạo dựng nên vốn nhân lực của từng cá nhân, đóng góp vai trò
quan trọng trong việc tăng thêm nguồn lực của con người để tận dụng những cơ
hội to lớn trong đời sống xã hội. Tầm quan trọng của giáo dục đối với cá nhân,
cộng đồng và sự phát triển của một quốc gia được phản ánh trong việc thừa nhận
nó như một quyền con người (Nhóm hành động chống đói nghèo, 2002;
UNFPA, 2005).
Tỷ lệ nhập học của trẻ em Việt Nam ngày càng tăng nhanh ở tất cả cấp học và đã đạt phổ cập giáo
dục trung học cơ sở vào năm 2010. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với
những thách thức lớn về tình trạng trẻ em bỏ học gia tăng (UNESCO, 2008), nhiều trẻ em ở lứa tuổi vị thành niên không học
trung học (UNICEF Việt
Nam, 2008). Đối với thanh thiếu niên, bỏ học quá sớm phải trả
giá đắt bằng năng suất sau này. Thu nhập bị mất và thiếu tích lũy kỹ năng sẽ
làm cho một người khó có thể thoát nghèo đói khi trưởng thành (Ngân hàng thế giới, 2007).
Subscribe to:
Posts (Atom)